Phân tích bài thơ đoàn thuyền đánh cá: Ý nghĩa và hình ảnh trong tác phẩm

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận không chỉ đơn thuần là một tác phẩm nghệ thuật, mà còn là bức tranh sống động phản ánh cuộc sống và tâm hồn của người lao động trong công cuộc xây dựng đất nước. Qua những câu chữ tràn đầy sức sống, nhà thơ đã khéo léo thể hiện không khí lao động vui tươi, hứng khởi của những người ngư dân đang hòa mình vào thiên nhiên bao la.

Chúng tôi sẽ cùng nhau phân tích tác phẩm để cảm nhận sâu sắc niềm vui, niềm tự hào của Huy Cận trước vẻ đẹp tráng lệ của quê hương đất nước, từ đó thấy rõ hơn giá trị của lao động và tình yêu quê hương trong tâm hồn người nghệ sĩ.

Phân tích bài thơ đoàn thuyền đánh cá: Ý nghĩa và hình ảnh trong tác phẩm

Dàn ý Phân tích Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận

Mở bài

Trong “Đoàn thuyền đánh cá”, ông khéo léo hòa quyện tình yêu thiên nhiên và cảm hứng từ cuộc sống lao động của con người, tạo nên bức tranh sinh động về biển cả và cuộc sống giản dị nhưng đầy ý nghĩa của những ngư dân. Qua đó, sự mạnh mẽ và vẻ đẹp của con người được tôn vinh một cách tuyệt diệu.

Thân bài: Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá

Cảnh đoàn thuyền ra khơi và tâm trạng của ngư dân

  • Hình ảnh đoàn thuyền xuôi dòng khi bóng đêm bủa vây.
  • Cảnh tượng những chiếc thuyền ra khơi trong cái tối mịt mùng, mang đến cảm giác thân thiết và gần gũi.
  • Những người ra khơi tràn đầy háo hức, niềm lạc quan cùng hi vọng vào một ngày mai đầy ắp cá tươi trong khoang.

Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển:

  • Bầu không khí tuyệt đẹp, bao la và hùng vĩ, nhưng đoàn thuyền đánh cá vẫn nổi bật, hòa quyện cùng vẻ đẹp của thiên nhiên.
  • Việc đánh cá giống như một cuộc chiến khốc liệt, không khác gì những trận chiến ngoài chiến trường.
  • Đoàn thuyền tựa như những dũng sĩ giữa biển cả bao la, lộng lẫy và oai phong.
  • Đam mê và nhiệt huyết của ngư dân trong môn nghệ thuật đánh bắt thật đáng ngưỡng mộ.

Cảnh đoàn thuyền trở về bờ

  • Hình ảnh đoàn thuyền hòa quyện, đồng điệu trong từng nhịp sóng.
  • Giai điệu ngân vang như một lời kêu gọi, thể hiện niềm vui và sự thắng lợi sau những ngày dài dày công lao động.
  • Cảnh tượng bên trong khoang thuyền tràn ngập những nông sản biển tươi mát.
  • Khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ như tô điểm cho con người và đoàn thuyền, trở thành tâm điểm lấp lánh của bức tranh ấy.

Kết bài

  • Khen ngợi tài năng bút pháp tuyệt vời của thi sĩ Huy Cận.
  • Chia sẻ những cảm xúc sâu sắc về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá.

Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận

Mẫu số 1

Huy Cận là nhà văn tiêu biểu của Thơ mới trước 1945, với tác phẩm nổi bật như Lửa Thiêng, Vũ trụ ca. Sau Cách mạng, ông tham gia công cuộc kháng chiến. Khi hòa bình, thơ ông phản ánh cuộc sống tươi đẹp hơn. Đoàn thuyền đánh cá ra đời năm 1958 tại Hòn Gai, được coi là một trong những bài thơ hay nhất Việt Nam hiện đại.

Với sự quan sát nhạy bén và trí tưởng tượng phong phú, nhà thơ đã vẽ nên khung cảnh lao động trên biển đầy sống động. Toàn bộ bài thơ như bức tranh sơn mài rực rỡ, cuốn hút người đọc:

Mặt trời xuống biến như hòn lửa
Sóng đã cài then, đập sập cửa
Đoàn  thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Đoàn thuyền đánh cá ra khơi dưới ánh hoàng hôn. Mặt trời như quả cầu lửa đỏ rực chìm dần vào đại dương rộng lớn. Đêm buông xuống, ngư dân bắt đầu công việc quen thuộc. Không khí đêm lạnh lẽo nhưng trở nên ấm áp bởi tiếng hát trong trẻo, thể hiện niềm vui giải phóng của họ. Câu hát biểu trưng cho sức mạnh gió, thổi căng buồm dẫn dắt thuyền ra khơi, tượng trưng cho tinh thần xây dựng đất nước.

Lời ca tán dương sự phong phú và vẻ đẹp bí ẩn của đại dương trong đêm. Phong cách lãng mạn của tác giả tạo nên một cảnh sắc vừa hiện thực vừa huyền ảo:

Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biên muôn luồn sáng
Đến dệt lưới ta, đàn cá ơi!

Vẻ đẹp tuyệt vời của biển xua tan nỗi cực nhọc, mang lại niềm vui và hạnh phúc cho những người đang chiến đấu với thiên nhiên để làm chủ cuộc sống.

Cảnh đánh cá đêm được Huy Cận quan sát và miêu tả tinh tế, thể hiện cảm hứng trữ tình sâu sắc. Tác giả như hòa quyện vào thiên nhiên, công việc và con người:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt mữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Hình ảnh về lái gió, buồm trăng, mây cao và biển phẳng mang nét thơ cổ nhưng vẫn hiện đại. Ra khơi đánh cá như một trận chiến, cần tìm kiếm bãi cá, giăng lưới chính xác để thu hoạch phong phú mỗi sáng khi trở lại bờ.

Ngư dân từ xưa đã gắn bó mật thiết với biển cả. Họ hiểu rõ những loài cá, từ tên gọi đến hình dáng và thói quen sống của chúng:

Tìm hiểu thêm:  Phân tích bài thơ lá đỏ: Ý nghĩa và hình ảnh trong thiên nhiên Việt Nam

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cá đuôi em quẫy trăng vầng chóe.
Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long.

Trên biển đêm, ánh trăng chiếu sáng long lanh, cá nhảy múa trong sóng trăng vàng. Bài ca gọi cá vang vọng, lúc hân hoan lúc tha thiết. Trăng như bạn đồng hành cùng ngư dân, soi sáng công việc, hòa nhịp với sóng gió bên thuyền. Thiên nhiên và con người thật hòa quyện.

Bóng đêm rút lui, ngày đến gần, công việc trở nên khẩn trương, sôi nổi hơn:

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Công sức của người nông dân đã được đền đáp. Ngư dân đứng vững, gồng mình kéo những mẻ cá nặng. Hình ảnh họ hiện lên trong ánh bình minh đỏ rực. Tia nắng chiếu sáng, làm lấp lánh vảy cá đa dạng, tạo nên cảnh sắc rực rỡ. Nhịp điệu thơ chậm rãi, mang lại cảm giác bình yên, phản ánh tâm trạng thoải mái của ngư dân sau một chuyến ra khơi thành công.

Khổ thơ cuối miêu tả cảnh thuyền đánh cá trở về:

Câu hát căng buồm cùng với gió khơi,
Đoàn thuyên chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Tiếng hát của ngư dân dày dạn kinh nghiệm vang lên, thể hiện sự chủ động trong cuộc sống. Tiếng hát hòa cùng gió, đưa đoàn thuyền ra khơi đêm qua và trở về đầy cá hôm nay. Hình ảnh đoàn thuyền chạy đua với mặt trời phản ánh thói quen đưa cá về bờ trước khi sáng, đồng thời thể hiện khí thế xây dựng đất nước sau giải phóng.

Nổi bật trong niềm vui chung, nhà thơ bay bổng với trí tưởng tượng. Đoàn thuyền lao vun vút trên biển, mặt trời nhô lên rực rỡ. Ánh nắng phản chiếu trong mắt hàng nghìn con cá như hàng triệu mặt trời nhỏ tỏa ra niềm vui. Bức tranh biển cả tràn đầy màu sắc và sức sống.

Đoàn thuyền đánh cá là bài ca lao động hào hùng, ca ngợi biển cả – kho tài nguyên vô tận của quốc gia và những người lao động cần cù. Cảm hứng trữ tình và nghệ thuật điêu luyện của Huy Cận thu hút người đọc. Dù nửa thế kỷ đã qua, bài thơ vẫn giữ giá trị ban đầu, ca ngợi hình ảnh người lao động. Nó cũng giúp ta hiểu rõ chân dung tinh thần mới của Huy Cận sau những thăng trầm lịch sử, một Huy Cận trữ tình cách mạng.

Mẫu số 2

Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu của thơ ca hiện đại Việt Nam, với tâm hồn lãng mạn về thiên nhiên và con người. “Đoàn thuyền đánh cá” ra đời năm 1958, phản ánh cảnh lao động và vẻ đẹp của ngư dân vùng biển Hạ Long trong những khoảnh khắc hoàng hôn và bình minh.

Đề tài “Con người lao động” luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ, Huy Cận cũng không ngoại lệ khi viết về ngư dân nơi này:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Câu thơ mở đầu miêu tả mặt trời đỏ rực lặn dưới đại dương, để lại màu tím ngọt ngào của hoàng hôn. Nghệ thuật so sánh “Mặt trời như hòn lửa” gợi cảnh sắc sặc sỡ và vẻ đẹp tráng lệ lúc hoàng hôn. Màn đêm đến mang theo sự huyền ảo, là thử thách lòng dũng cảm.

Trong không gian ấy, “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi” biểu hiện tinh thần lao động quên mệt mỏi của ngư dân, góp phần xây dựng đất nước. Đêm tối trở nên sống động với âm thanh của người dân, câu hát hòa cùng gió biển, tượng trưng cho sức mạnh và sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người. Tinh thần lạc quan, niềm vui lao động thắp lên hy vọng về một chuyến ra khơi thành công.

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!

Trong bài hát của ngư dân, họ biết tên các loài cá như cá bạc, cá thu. Họ quen thuộc với biển cả, thể hiện qua phép so sánh “Cá thu như đoàn thoi”, gợi hình ảnh sống động và ca ngợi tài nguyên phong phú ở Quảng Ninh. Nhìn đoàn cá thu đưa dệt nên tấm vải lấp lánh. “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!” là lời mời gọi cá vào lưới, thể hiện sự lạc quan và niềm tin vào một đêm đánh bắt thành công. Bài hát này không chỉ ca ngợi vùng biển của nước ta mà còn hữu ích trong lao động.

Với trí tưởng tượng phong phú, nhà thơ tạo ra hình ảnh huyền ảo cho người đọc:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biểm
Dan đan thế trận lưới vây giăng.

Đoàn thuyền đánh cá lênh đênh trên biển, gió kết hợp với vầng trăng khuyết như cánh buồm. Thiên nhiên hỗ trợ ngư dân ra khơi thành công. Trước mắt nhà thơ, thuyền giống như những vần thơ lướt nhẹ trên sóng nước. Ngư dân mới trở thành chủ của đại dương, với trang bị hiện đại để phục vụ cuộc sống. Với trí tưởng tượng phong phú, nhà thơ ví đoàn thuyền chiến đấu như những chiếc tàu lớn chuẩn bị vây bắt cá. Ông đã nâng cao bản sắc con người bên cạnh biển cả và vũ trụ.

Tìm hiểu thêm:  Phân tích thơ haiku: Nghệ thuật ngắn gọn, sâu sắc trong văn hóa Nhật Bản

Ngư dân từ xưa đã có mối quan hệ chặt chẽ với biển, họ hiểu rõ từng loài cá và thói quen của chúng:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cá đuôi em quẫy trăng vàng chóa,
Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long.

Trên biển đêm, ánh trăng lấp lánh, cá nhảy múa, sóng ánh vàng. Bài hát “gọi cá” ngân vang, đầy cảm xúc. Trăng cùng ngư dân, hòa nhịp với tiếng hát, chiếu sáng cho những mẻ cá đầy ắp. Thiên nhiên và con người thật hòa hợp.

Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Công sức của ngư dân đã được đền đáp. Họ cặm cụi kéo lưới, in hình lên trời sáng bình minh. Ánh nắng vàng chiếu rọi khoang cá, tô điểm cho sự phong phú của loài cá và làm cảnh biển thêm rực rỡ. Những câu thơ cuối gợi cảm giác bình yên, vui tươi, phản ánh tâm trạng phấn khởi của ngư dân với thành quả đạt được.

Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn  thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Nhà thơ dùng bút pháp khoa trương để hình dung câu hát của ngư dân, thổi gió vào buồm làm thuyền cập bến. Thiên nhiên và con người hòa hợp, tiếng hát thể hiện tinh thần lạc quan sau những ngày vất vả trên biển. Câu hát được lặp lại ở đầu và cuối bài, tạo sự liên kết. Khung cảnh trở nên sống động, biển như trường đua giữa con người và mặt trời, với con người chiến thắng nhờ thành quả lao động. Nhà thơ khẳng định con người có tầm vóc tương xứng với thiên nhiên. Hòa cùng niềm vui của ngư dân, ông cho trí tưởng tượng bay xa, miêu tả biển cả rực rỡ màu sắc và sự sống tràn đầy.

Mẫu số 3

Khi đến với thơ Huy Cận, bài “Đoàn thuyền đánh cá” để lại ấn tượng sâu sắc. Tác phẩm thể hiện vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước và biển cả phong phú.

Bài thơ được sáng tác năm 1958 trong chuyến đi tại Hòn Gai. Huy Cận đã mô tả cảnh lao động trên biển bằng sự quan sát tinh tế và trí tưởng tượng phong phú. Đọc thơ, ta như thấy một bức tranh sống động.

Trong khổ thơ đầu, nhà thơ vẽ nên vẻ đẹp thiên nhiên và hình ảnh đoàn thuyền ra khơi:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
….
Câu hát căng buồm với gió khơi”

Đoàn thuyền rời bến lúc hoàng hôn, khi mặt trời đã mệt mỏi chuẩn bị nghỉ. Cảnh tượng “mặt trời xuống biển như hòn lửa” tạo nên khung cảnh thiên nhiên rực rỡ.

Mặt trời từ từ lặn xuống đại dương bao la, màn đêm buông xuống. Biển trở thành gian phòng tự nhiên với “sóng đã cài then đêm sập cửa”. Lúc này, ngư dân bắt đầu công việc quen thuộc của mình: ra khơi đánh cá. Đoàn thuyền vang tiếng hát hòa cùng gió, đưa buồm căng sail ra khơi, ca ngợi vẻ đẹp và sự hào phóng của biển trong đêm:

“Hát rằng cá bạc biển đông lặng
….
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”

Vẻ đẹp biển cả giúp người lao động nhẹ nhõm hơn. Cảnh đánh cá đêm được nhà thơ thể hiện đầy cảm xúc. Huy Cận như gắn bó với ngư dân trong công việc:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Với cách xây dựng hình ảnh độc đáo, con thuyền đánh cá nhỏ bé trở thành biểu tượng hùng vĩ hòa nhập với thiên nhiên vô cùng rộng lớn. Ta có thể tưởng tượng nó bay giữa không gian bao la.

Những hình ảnh như “lái gió”, “buồm trăng”, “mây cao”, “biển bằng” mang đậm chất thơ cổ điển nhưng vẫn hiện thực. Chuyến ra khơi gần như một trận chiến, người ngư dân quen thuộc với biển cả, thuộc từng loài cá và thói quen của chúng:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
….
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”

Màn đêm tĩnh lặng, ánh trăng lung linh soi xuống mặt nước, cá quẫy tạo sóng. Tiếng “em” bật ra tự nhiên và trìu mến. Giờ đây không còn là bài ca ra khơi, mà là tiếng gọi cá vang vọng.

Ánh trăng như bạn đồng hành, cùng ngư dân trên biển, gõ nhịp cho tiếng hát, giúp họ đánh bắt được nhiều cá. Hình ảnh “biển cho ta cá như lòng mẹ” thể hiện tình yêu thương, sự bao la của biển cả với con người.

Cuối cùng, sự lao động vất vả đã được đền đáp xứng đáng:

“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
…..
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Họ đang dùng sức mạnh đôi tay để kéo lên những mẻ lưới nặng. Màu sắc phong phú, lấp lánh vẩy bạc và đuôi vàng của cá làm cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu “lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” tĩnh lặng, mang lại cảm giác vui tươi, thể hiện tâm trạng phấn khởi của người ngư dân.

Cuối cùng, khổ thơ miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:

“Câu hát căng buồm với gió khơi
…..
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Tiếng hát xuyên suốt bài thơ, hòa nhịp cùng gió, kéo buồm đưa đoàn người ra khơi. Hình ảnh “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” vừa thực tế vừa biểu tượng, thể hiện thói quen của ngư dân khi mang cá về trước bình minh. Đây cũng là tâm thế sẵn sàng cho lao động mới.

Tìm hiểu thêm:  Phân tích bài thơ Bếp lửa: Tình cảm gia đình và ý nghĩa sâu sắc trong từng câu chữ

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” phản ánh lao động miệt mài của ngư dân, tạo niềm tự hào về thiên nhiên và con người Việt Nam trong xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Mẫu số 4

Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Tác phẩm nổi bật của ông là “Đoàn thuyền đánh cá”, mang lại cho người đọc hình ảnh tuyệt đẹp và sự hòa quyện giữa thiên nhiên với lao động, thể hiện niềm vui và tự hào về quê hương.

Bài thơ mở đầu với hình ảnh thiên nhiên và đoàn thuyền ra khơi:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
…..
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Cách so sánh “mặt trời xuống biển” với “hòn lửa” thể hiện sắc đỏ và hình tròn của mặt trời, gợi nhớ hoàng hôn. Biển trở thành căn nhà rộng lớn, đêm là cửa ra vào, sóng là then cài. Thiên nhiên đã nghỉ ngơi, tận hưởng bình yên.

Ngược lại, con người mới bắt đầu lao động. “Đoàn thuyền” không chỉ là thuyền mà là tập thể ra khơi lao động. Câu “lại ra khơi” cho thấy sự quen thuộc. Hình ảnh “câu hát căng buồm” diễn tả sự cùng nhau ca hát, tạo sức mạnh để thuyền ra khơi. Khi mọi vật nghỉ ngơi, ngư dân bắt đầu công việc.

Trong khổ thơ tiếp theo, Huy Cận khắc họa rõ nét hình ảnh ngư dân:

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
…..
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”

Câu hát của ngư dân không chỉ thể hiện lòng lạc quan mà còn bộc lộ ước mơ. Công việc đánh cá khó khăn khiến họ mong trời yên, biển lặng và thu hoạch dồi dào. Hình ảnh so sánh, nhân hóa mang đến cảm nhận sâu sắc về người lao động.

Tiếp theo, tác giả mô tả khung cảnh đánh cá:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
…..
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Bức tranh thơ hiện lên rực rỡ với hình ảnh gió, trăng, mây tạo nên ngôn ngữ lung linh. Đặc biệt là con thuyền “lái gió với buồm trăng”, vừa thực lại vừa lãng mạn, phản ánh sự gắn bó giữa thiên nhiên và người ngư dân.

Nghệ thuật phóng đại “lướt giữa mây cao với biển bằng” tả con thuyền như một tấm ván khổng lồ trong không gian bao la. Ngư dân vẫn miệt mài lao động ngay cả trong đêm tối, cuộc sống đấu tranh với thiên nhiên thể hiện tinh thần lạc quan và hăng hái của họ.

Nhà thơ nhấn mạnh đến sự phong phú của biển cả:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
…..
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”

Biện pháp tu từ liệt kê thể hiện rõ với nhiều tên gọi cá quý như cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song. Hình ảnh “lấp lánh đuốc đen hồng” gợi sắc màu của cá song, đặc biệt là “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” rất thơ mộng.

Người đọc hình dung ánh trăng soi xuống mặt biển, cá quẫy đuôi tạo ra sóng ánh trăng vàng. Âm thanh biển cả vang lên “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”, màn đêm sống động như sinh mệnh. Huy Cận có tình yêu với biển sâu sắc mới viết những câu thơ tinh tế như vậy.

Nếu khúc đầu bài thơ là tiếng hát ra khơi thì đây là ca khúc gọi cá vào, tiếng hát xua tan mệt mỏi trong giờ lao động, làm công việc nặng nhọc trở nên vui tươi hơn:

“Ta hát bài ca gọi cá vào,
…..
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

Nhà thơ miêu tả biển với lòng bao dung, thể hiện sự biết ơn qua hình ảnh “biển cho ta cá như lòng mẹ” – biển êm dịu, nuôi dưỡng nhiều người dân vùng biển.

Cuối cùng, sau một đêm lao động vất vả, họ cũng gặt hái được thành quả xứng đáng:

“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
…..
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Khi kéo lưới, trời vừa sáng – lao động suốt đêm không biết mệt. Hình ảnh “tay kéo xoăn tay chùm cá nặng” thể hiện sức khỏe của ngư dân với những chiếc lưới đầy cá. Đặc biệt, hình ảnh cá trên thuyền “Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông” đẹp như lúc thu hoạch ngay khi bình minh.

Bài thơ khép lại với hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về:

“Câu hát căng buồm với gió khơi,
…..
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Câu hát luôn vang lên từ khi ra khơi đến lúc về bến, thể hiện niềm vui và phấn chấn. Cảnh bình minh thật đẹp, con thuyền trở về trong khí thế hối hả, “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Điều này phản ánh thói quen của ngư dân đưa cá về trước sáng, cũng như sự mạnh mẽ trong công cuộc xây dựng đất nước. Nhà thơ hòa cùng niềm vui chung, mở rộng trí tưởng tượng.

“Đoàn thuyền đánh cá” là bài ca lao động hào hùng. Đọc từng câu, ta cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên, sự phong phú của biển cả và niềm tự hào về tinh thần lao động say mê của người dân đã được giải phóng, làm chủ cuộc sống và đất nước.

Kết luận

Bài thơ khắc họa hình ảnh ngư dân chăm chỉ, chịu khó trước thử thách nhưng vẫn lạc quan yêu đời. Họ góp phần vào sự đổi mới của đất nước. Quê hương đẹp với nguồn tài nguyên phong phú.

Tác giả, yêu thiên nhiên và con người, đã tạo nên bức tranh sống động về Việt Nam trong thời kỳ miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chúng tôi vừa chia sẻ nội dung về Phân tích Đoàn thuyền đánh cá. Hy vọng thông tin hữu ích với bạn đọc. 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *