Phân tích bài thơ Tràng Giang: Nét đẹp của nỗi buồn và tình yêu quê hương

Bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận là một tác phẩm nổi bật trong nền văn học Việt Nam hiện đại, không chỉ về hình thức mà còn về nội dung sâu sắc. Được sáng tác vào năm 1939, bài thơ mang đậm tâm trạng của một tâm hồn nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên và con người, đồng thời phản ánh sự cô đơn, trăn trở trong cuộc sống.

Với ngôn từ tinh tế, hình ảnh sinh động cùng những phép tu từ độc đáo, Huy Cận đã khéo léo phác họa bức tranh thiên nhiên hùng vĩ nhưng đầy trầm lắng, từ đó gửi gắm nỗi niềm và triết lý sống của mình. Phân tích “Tràng Giang”, chúng ta sẽ khám phá những chiều sâu tâm trạng của nhân vật trữ tình cũng như vẻ đẹp của cảnh vật và mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên trong tác phẩm này.

Phân tích bài thơ Tràng Giang: Nét đẹp của nỗi buồn và tình yêu quê hương

Dàn ý Phân tích Tràng giang

I. Mở bài:

Giới thiệu tóm tắt về tác giả Huy Cận (tiểu sử, con người, sáng tác nổi bật, đặc điểm sáng tác,…)

Tóm tắt bài thơ “Tràng giang” (hoàn cảnh sáng tác, nguồn gốc, những giá trị nội dung và nghệ thuật chính,…)

II. Thân bài:

* Nhan đề và câu thơ đề từ

Nhân đề

Từ Hán Việt cổ, nghĩa là sông dài.

Sử dụng hai vần ngân vang, gợi hình ảnh sông rộng dài.

Câu thơ mở đầu khái quát tình và cảnh

* Khổ 1

Mở ra hình ảnh sông nước bao la.

→ “Điệp điệp” gợi sóng liên tục, không gian lớn lao.

Thuyền nhỏ giữa sông mênh mông sinh cảm giác cô đơn.

Hai câu cuối nỗi buồn chia ly, “củi một cành khô” ám ảnh về cảnh đời lạc lõng.

→ Dòng tràng giang là dòng đời, thuyền và cành củi tượng trưng cho kiếp người bé nhỏ, vô định.

* Khổ 2

Không gian hoang vắng qua từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” gợi sự tĩnh mịch.

Câu “Đâu tiếng làng xa” thể hiện nỗi buồn, thiếu vắng sự sống con người.

Không gian vắng vẻ càng thêm cô độc, gợi nỗi buồn sâu sắc.

* Khổ 3

“Bèo dạt về đâu” gợi kiếp người trôi nổi.

Phủ định “không một chuyến đò ngang”, “không cầu” thể hiện sự cô đơn, tách biệt.

* Khổ 4

Hình ảnh thiên nhiên chiều tà đẹp hùng vĩ.

Đám mây trắng, cánh chim mang lại chút ấm áp nhưng không xóa tan nỗi buồn.

Hai câu cuối diễn tả nỗi nhớ quê cháy bỏng, “dờn dợn vời con nước” thể hiện nỗi buồn nhớ quê hương.

Câu cuối khép lại bài thơ, thể hiện niềm thương nhớ quê hương rõ nét.

III. Kết bài:

  • Khái quát những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của bài thơ và những cảm nhận của bản thân.

Phân tích Tràng giang của Huy Cận mẫu 1

Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng với nỗi sầu bi. Trước cách mạng, tâm hồn ông ẩn chứa nhiều nỗi đớn đau của thời đại. Tác phẩm Tràng giang thể hiện nỗi buồn sâu thẳm ấy cùng tình yêu nước thầm lặng.

Tiêu đề bài thơ gồm hai âm “ang”, mang ý nghĩa mênh mông. Dòng sông không chỉ là một con sông bình thường mà còn mang tầm vóc vũ trụ. Việc sử dụng từ Hán Việt làm cho bài thơ có âm hưởng cổ kính, khái quát hơn.

Không tác phẩm nào cũng có lời đề từ. Khi có, nó thường bao quát nội dung tác phẩm. Bài thơ Tràng giang bắt đầu bằng lời đề từ do Huy Cận sáng tác:

 

 

Buâng khuâng trời rộng nhớ sông dài

Câu thơ mở ra không gian vũ trụ bao la, khiến con người cảm thấy lạc lõng. Đây là cảm xúc chung của nhiều thế hệ thi sĩ. Câu thơ đã khơi dậy mạch cảm xúc cho toàn bài.

Bài thơ bắt đầu bằng khổ thơ đầy nỗi buồn:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng

Những con sóng nhẹ nhàng theo chiều gió, không gian hoàn toàn yên tĩnh. Nhưng ẩn chứa trong thiên nhiên là tâm trạng con người “buồn điệp điệp”, nỗi buồn trở nên rõ nét qua từ láy “điệp điệp”. Nỗi buồn ấy chồng chất, nhẹ mà thấm sâu trong lòng. Hình ảnh con thuyền xuôi mái lẻ loi, giống như số phận con người Việt Nam lúc bấy giờ. Thuyền trôi, để lại nỗi buồn mênh mang cho những người ở lại – nước. Những cành củi khô cô đơn lạc lõng giữa dòng đời, ẩn dụ cho kiếp người nhỏ bé. Từ “củi” được nhấn mạnh sự tầm thường và cái tôi lạc loài trong Thơ mới.

Huy Cận hướng cái nhìn gần hơn đến những cồn ở sông Hồng. “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu” tạo cảm giác vắng vẻ, hiu quạnh. Tác giả tìm kiếm sự sống, âm thanh chợ xa nhưng không nơi nào có. Không gian tĩnh lặng tuyệt đối, nỗi buồn càng dâng cao khi không gian mở rộng, thể hiện sự cô đơn của con người trước vũ trụ.

Đôi mắt Huy Cận lại tìm kiếm những điều vô cùng và thu về chỉ có:

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cần gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bời xanh tiếp bãi vàng.

Những cánh bèo trôi dạt, vô định như những tâm hồn đơn độc. Không gian sông nước mênh mông, không có chuyến đò nào qua lại. Đò không chỉ là phương tiện mà còn kết nối tình cảm, nhưng tất cả đã bị phủ nhận hoàn toàn, không một, không cầu, không còn tình người nữa.

Khổ thơ cuối vẽ bức tranh không gian đa tầng, ông ngước lên “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/ Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa”. Mây lớn dưới ánh mặt trời trở nên hùng vĩ. Động từ “đùn” biểu thị sự ùn ùn kéo về của mây, tạo nên cảnh núi non tuyệt đẹp. Giữa không gian ấy, chim nhỏ lạc lõng, dường như bị nuốt chửng. Giữa thiên nhiên cô tịch, nỗi nhớ quê hương trong ông da diết, cồn cào:

Lòng quê dờn dợn vợi con nước

Không khói hoàng hôn cùng nhớ nhà.

Câu thơ gợi nhớ đến Thôi Hiệu với câu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thưởng sử nhân sầu”. Cả hai đều mang nỗi nhớ quê, nhưng Huy Cận thể hiện độc đáo hơn. Lòng quê “dờn dợn” như sóng nước, luôn day dứt. Đây cũng là biểu hiện kín đáo của tình yêu quê hương.

Tác phẩm hòa quyện cổ điển và hiện đại, tạo nên bức tranh thiên nhiên rộng lớn, hoang vắng. Qua đó, hiện lên cái tôi cô đơn, nỗi buồn giữa trời đất, đồng thời thể hiện lòng yêu nước sâu sắc.

Phân tích Tràng giang của Huy Cận mẫu 2

Huy Cận là nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ Mới, với giọng điệu riêng và chiều sâu tư tưởng. Thơ ông thể hiện nỗi buồn sâu sắc liên quan đến địa danh và tâm trạng con người. “Tràng Giang”, sáng tác năm 1939, gợi lên khung cảnh sông nước mênh mông, lấy cảm hứng từ sông Hồng. Huy Cận thường thăm vùng Chèm để thưởng lãm cảnh đẹp nơi đây.

Tìm hiểu thêm:  Phân tích bài thơ tiểu đội xe không kính: Ý nghĩa và giá trị nghệ thuật sâu sắc

Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” mang đến chủ đề về nỗi niềm khó bày tỏ giữa không gian bao la. Bài thơ vừa hiện đại vừa cổ điển, đặc trưng cho phong cách của Huy Cận.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh sông nước, khiến người đọc cảm nhận được nỗi buồn da diết.

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ hiện rõ từ bốn câu đầu. Những từ như “buồn”, “sầu trăm ngả”, “lạc mấy dòng” cùng với từ láy “điệp điệp”, “song song” thể hiện nỗi buồn sâu lắng của tác giả. Hình ảnh “con thuyền xuôi mái” giữa dòng sông yên tĩnh tạo cảm giác mênh mông và cô đơn. Dòng sông rộng lớn phản ánh lòng người đầy ắp nỗi buồn. Sự xa cách giữa “thuyền” và “nước” gợi lên nỗi xót xa, tạo ra nỗi “sầu trăm ngả”, không có điểm dừng.

Nỗi buồn được đọng lại trong câu cuối “củi một cành khô lạc mấy dòng”. Huy Cận dùng đảo ngữ và từ ngữ khéo léo để thể hiện sự cô đơn. “Một” gợi sự đơn độc, “cành khô” mang ý nghĩa cạn kiệt sức sống, còn “lạc” biểu thị nỗi sầu vô định. Hình ảnh cành củi trôi trong vô nghĩa khiến người đọc cảm thấy trống vắng. Khổ thơ thứ hai như càng làm nổi bật nỗi hiu quạnh ấy.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Hai câu thơ đầu gợi lên sự buồn bã, tĩnh lặng của làng quê nghèo. Hình ảnh “cồn nhỏ” và tiếng gió “đìu hiu” mang đến nỗi buồn sâu sắc. Nhà thơ tự hỏi tại sao ngay cả âm thanh nhộn nhịp của chợ chiều cũng vắng lặng, như chính không gian nơi này. Từ “đâu” vang lên đầy thê lương, thiếu điểm tựa. “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu” hiện lên hoang sơ, không có người, không âm thanh, chỉ còn đất trời kéo dài, đơn độc. Hai câu thơ cuối mượn “trời”, “sông” thể hiện cái mênh mang tâm trạng, nhà thơ dùng “trời sâu” để biểu đạt chiều sâu cảm xúc, phản ánh nỗi buồn cô liêu không nói được cùng ai.

Ở khổ thơ thứ ba, tác giả tìm kiếm hơi ấm của thiên nhiên nhưng cảnh sắc vẫn không như lòng người mong đợi.

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Khổ thơ thứ 3 thể hiện sự chuyển biến của thiên nhiên, không còn u ám như trước. Từ “dạt” cho thấy sự thay đổi, nhưng hình ảnh “bèo” lại mang tính trôi nổi, không cố định, không biết sẽ đi đâu hay tồn tại bao lâu nữa. Mặt nước rộng lớn khô cạn, tác giả mong chờ một chuyến đò để khẳng định sự sống, nhưng dường như điều đó là bất khả thi.

Khổ thơ cuối cùng, cảm xúc và bút pháp tác giả đạt cao trào, nét vẽ chấm phá đầy tinh tế.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Nét chấm phá của “mây cao” và “núi bạc” thể hiện sự cô đơn, buồn bã. Hình ảnh “chim nghiêng cánh” và “bóng chiều sa” hữu hình hóa cái vô hình mà tác giả cảm nhận. Bóng chiều tuy không thấy nhưng qua tác giả, người đọc hình dung được vẻ đẹp của trời chiều. Mây chồng chất dưới ánh nắng, tạo nên khung cảnh rực rỡ. Ở đó, chim nhỏ lặng lẽ giữa bầu trời bao la, phản chiếu sự đơn độc của nhà thơ.

Hai câu cuối là nỗi nhớ quê rõ nét. Tình cảm nhà thơ đong đầy trong lòng, với “dờn dợn” gợi nhớ ngập tràn trước cảnh hoang vắng. “Không khói hoàng hôn” cho thấy nỗi nhớ quê luôn thường trực. Câu cuối như khẳng định tình yêu quê hương sâu sắc của nhà thơ.

Bài thơ “Tràng giang” vừa cổ điển vừa hiện đại, kết hợp bút pháp thực tế và cổ điển, tạo nên bức tranh thiên nhiên u buồn và nỗi tâm tư cô liêu. Qua đó, Huy Cận gửi gắm tình yêu quê hương chân thành. Với cấu trúc mạch lạc và ngôn từ sáng tạo, bài thơ như một bản hòa ca thể hiện tình yêu đất nước. Xuân Diệu đã ca ngợi đây là bài thơ về non sông Tổ quốc.

“Tràng giang” là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp thơ ca của Huy Cận, khắc họa cảnh vật u buồn, bộc lộ tâm trạng cô đơn, cùng tình yêu quê sâu sắc của tác giả, để lại dấu ấn mạnh mẽ trong lòng bạn đọc.

Phân tích Tràng giang của Huy Cận mẫu 3

Hoài Thanh nhận định về các nhà thơ mới năm 1930: “Ta cùng Thế Lữ lên tiên, phiêu lưu cùng Lưu Trọng Lư, điên cuồng với Hàn Mặc Tử, say đắm cùng Xuân Diệu. Nhưng tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, ta trở lại hồn cùng Huy Cận”. Mỗi nhà thơ mang phong cách độc đáo riêng. Huy Cận là nhà thơ xuất sắc với nỗi buồn nhân thế; bài “Tràng Giang” thể hiện sâu sắc tâm tư ấy.

Huy Cận nằm trong nhóm nhà thơ mới giai đoạn 1930-1945. Khác với Xuân Diệu, Huy Cận chìm trong nỗi sầu nhân thế. “Tràng Giang” là tác phẩm tiêu biểu trong tập “Lửa thiêng” (1940), viết khi Huy Cận ngắm cảnh thiên nhiên bên bờ sông Hồng, từ đó suy ngẫm về cuộc đời. Bài thơ thể hiện vẻ đẹp thiên nhiên và nỗi buồn của tác giả.

Bắt đầu bài thơ, Huy Cận mang đến nét đẹp cổ điển qua nhan đề “Tràng Giang” (sông lớn). Thuật ngữ này không chỉ âm vang mà còn chứa nỗi buồn dài, thể hiện qua “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, mở ra không gian rộng lớn đầy cảm xúc.

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Trong khổ thơ đầu, hình ảnh cổ điển như “trường giang”, “con thuyền”, “củi một cành khô” tạo không gian rộng lớn. Hai từ “điệp điệp” và “song song” gợi ra sự bao la nhưng tĩnh lặng. Nỗi buồn được thể hiện qua hình ảnh con thuyền lặng giữa dòng nước, thể hiện sự chia ly giữa thuyền và nước. Câu cuối “Củi một cành khô lạc mấy dòng” nhấn mạnh thân phận nhỏ bé, cô đơn trôi nổi giữa đời. Tâm trạng thi nhân rất rõ ràng: nỗi buồn thời thế.

Nỗi buồn ấy càng đậm sâu trong khổ thơ thứ hai:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu”.

Bức tranh thiên nhiên sông nước thêm sức sống nhờ những “cồn nhỏ” nổi lên giữa dòng. Những gò đất hiền hòa mang đến cảm giác đơn sơ, hoang vắng, càng làm tăng nỗi buồn của thi nhân khi gió thổi qua nhẹ nhàng.

Chợ chiều vang lên âm thanh mơ hồ, gợi ra cuộc sống nơi đây. Tác giả chỉ cảm nhận chứ không thấy rõ, âm thanh vừa thực vừa ảo, khiến cho nỗi cô đơn càng thêm sâu sắc trên quê hương mình.

Tìm hiểu thêm:  +22 Mẫu Phân tích bài thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ: Tâm hồn và vẻ đẹp của thiên nhiên xuân

“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Nỗi buồn không chỉ ảnh hưởng tới không gian mà còn kéo dài theo thời gian. Không gian mở ra nhiều chiều cao, sâu, rộng… “Nắng xuống” và “trời lên” tạo sự ngăn cách giữa hai chiều đối lập. Cảm nhận này chỉ thể hiện rõ trong con người hiện đại. Khi nắng hạ, trời cao hơn, bóng đổ xuống lòng sông sâu. Tác giả dùng từ “sâu chót vót” để diễn tả chiều cao và độ sâu. Con người càng trở nên nhỏ bé, cô đơn trước vũ trụ mênh mông. “Sông dài, trời rộng” khiến con người như lạc lõng hơn, với hình ảnh “bến cô liêu” thêm phần hiu quạnh.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.

Chúng ta gặp những hình ảnh quen thuộc như cánh bèo trôi dạt vô định, tượng trưng cho số phận nhỏ bé, cô đơn, bấp bênh. Dù thi nhân cố tìm niềm vui nhưng không có hình bóng cuộc sống, không có sự chia sẻ của tình người. Điệp từ “không” càng làm tăng thêm nỗi buồn, chỉ còn “bờ xanh tiếp bãi vàng,” với thi nhân lẻ loi giữa thiên nhiên hoang vắng.

Thi nhân mở rộng tầm nhìn, không còn góc nhìn thấp mà hướng tới bầu trời rộng lớn hơn:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Chỉ với bốn câu cuối, tác giả khắc họa một bức tranh cổ điển: xa xa là núi, mây “lớp lớp”. Có một cánh chim nhỏ lẻ loi “nghiêng cánh” dưới “bóng chiều sa”, đại diện cho nỗi cô đơn, buồn bã giữa bầu trời rộng lớn. Thiên nhiên ở đây hoành tráng, khác hẳn sự hiu quạnh ở các khổ trước.

“Lòng quê dợn dợn vờn con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

“Lòng quê” là tình yêu thiên nhiên đất nước, cuộn trào như sóng lớn. Tình yêu quê hương mãnh liệt như con sông “Trường Giang”. Những người xa quê chỉ cần một hình ảnh nhỏ cũng gợi nhớ nơi chôn rau cắt rốn. Bóng chiều mang nhiều cảm xúc; Thôi Hiệu nhớ nhà qua khói hoàng hôn, trong khi Huy Cận lại nhớ quê mà không cần thấy khói đó. Đây là sự sáng tạo độc đáo của Huy Cận.

Bài thơ “Tràng Giang” tạo nên bức tranh hùng vĩ với cái nhìn sâu sắc. Nỗi buồn bao trùm không chỉ của tác giả mà còn của thế hệ mất nước. Hình ảnh gần gũi như sông nước bến thuyền biểu hiện vẻ đẹp cổ kính lẫn hiện đại, thể hiện sự độc đáo trong thơ Huy Cận.

Phân tích Tràng giang của Huy Cận mẫu 4

Khi nhắc đến Huy Cận, người ta nhớ ngay “hồn thơ ảo não” (Hoài Thanh). Trước cách mạng tháng Tám 1945, ông thể hiện nỗi sầu nhân thế và cái tôi buồn bã qua nhiều tác phẩm, trong đó có bài thơ Tràng giang trong tập “Lửa thiêng” (1940), tiêu biểu phong cách của ông.

Vào chiều thu năm 1939, một sinh viên ở Cao đẳng Canh nông đạp xe bên sông Hồng, trước cảnh sóng nước mênh mông, đã sáng tác Tràng giang từ nỗi cô đơn và nhớ nhà. Ban đầu bài có tên “Chiều trên sông”, nhưng được đổi thành Tràng giang với ý nghĩa sâu sắc hơn. Từ “Tràng giang” mang tính cổ kính, gợi ra hình ảnh dòng sông dài rộng; cách điệp âm “ang” làm tăng cảm giác ngân vang. Lời đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài thêm rõ nét nỗi buồn trước không gian bao la.

Trước dòng Tràng giang như vậy, thi nhân để nỗi buồn lan tỏa khắp không gian, bao trùm cả vũ trụ.

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Khổ thơ đầu vẽ nên cảnh tràng giang rộng lớn, đối lập với những vật nhỏ bé như sóng, thuyền, cành củi khô. Những hình ảnh ấy gợi buồn mênh mang theo dòng nước. Qua các từ như gợn, buồn điệp điệp, nước song song, sầu trăm ngả, nỗi buồn trải dài trên mặt sông. Dù có sự vật nhưng lại không gắn kết, thuyền và nước chia xa, tạo ra nỗi buồn lan tỏa. Điểm nhấn là cành củi khô, không còn sức sống, nổi trôi vô định, thể hiện nỗi buồn và cô đơn, phản ánh kiếp người nhỏ bé, lẻ loi giữa dòng đời.

Ở khổ thơ thứ hai, cái nhìn nhân vật đã mở rộng, hướng về chiếc cồn nhỏ, bầu trời và dòng sông bao la.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xe vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu

Không gian vẫn yên tĩnh, từ “lơ thơ” càng thể hiện sự tịch mịch. Âm thanh sống sót dường như xa lạ; tiếng làng vãn chợ chiều không làm nên sự nhộn nhịp, mà càng tăng thêm tĩnh lặng. Xung quanh chỉ có nắng trời, sông thì xa xăm. Tác giả khéo léo miêu tả khoảng cách giữa trời và sông, tạo cảm giác mở rộng không gian. Bến cô liêu phản ánh nỗi buồn và sự cô đơn sâu sắc. Thi nhân giờ đây bị choáng ngợp trước vũ trụ bao la.

Thi nhân tiếp tục tìm kiếm, ước mong một chút sự sống từ con người.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Hình ảnh hàng bèo quen thuộc vốn gắn liền với cuộc sống trôi nổi của con người. Nhưng ở đây, hàng bèo nối tiếp nhau, không biết trôi dạt về đâu. Có sự lạc lõng, buồn bã của một thế hệ không biết mình sẽ đi đâu. Cảnh thơ giản dị nhưng chứa đựng tâm tư của nhiều số phận lúc này. Mọi thứ xung quanh đều mênh mông, thiếu vắng dấu hiệu sống. Không có chuyến đò hay cầu, nỗi niềm trở nên khó khăn. Chỉ còn thiên nhiên hiện hữu. Từ “lặng lẽ” diễn tả sự ngậm ngùi khi nhìn dòng sông từ xa, chỉ còn bờ xanh, bãi vàng, tạo nên không gian bao la. Nỗi cô đơn, buồn bã vẫn đọng lại, không có dấu hiệu giảm bớt.

Cả ba khổ thơ vẽ nên bức tranh thiên nhiên hòa quyện cổ điển và hiện đại, phản ánh sự vô tận và nỗi buồn, cô đơn sâu sắc trong lòng người. Hi vọng chỉ còn gửi gắm vào khổ cuối, mong cái tôi phần nào nhẹ nhàng hơn trước những ưu tư:

Lớp lớp mây cao, đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Khung cảnh thiên nhiên thay đổi, không còn dòng sông tĩnh lặng mà là vẻ đẹp tráng lệ trên nền trời chiều. Với thi liệu quen thuộc như mây và chim, nhà thơ tạo nên bức tranh sinh động với lớp lớp áng mây ánh bạc. Cánh chim chao nghiêng biểu hiện sự chuyển động nhanh chóng giữa không gian và thời gian, nhưng lòng người lại cảm thấy trống trải. Nỗi cô đơn biến thành nỗi nhớ quê hương, da diết và bâng khuâng. Dù ở quê mà vẫn nhớ quê, đó là cảm giác chung của các thi nhân trước hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Không cần yếu tố bên ngoài, nỗi nhớ quê hương tự bộc lộ tình yêu mãnh liệt.

Tìm hiểu thêm:  Phân tích thơ haiku: Nghệ thuật ngắn gọn, sâu sắc trong văn hóa Nhật Bản

Sau bài thơ, hai ấn tượng đọng lại là không gian vô tận và nỗi buồn không giới hạn. Cả hai làm tăng thêm cảm giác cô đơn, tích tụ nỗi sầu kéo dài hàng ngàn năm. Bút pháp ngang giữa cổ điển và hiện đại đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên đẹp, mặc dù buồn, phản ánh tình yêu đất nước thầm kín trong “Tràng giang”.

Phân tích Tràng giang của Huy Cận mẫu 5

Nhà thơ Huy Cận, tên thật Cù Huy Cận, sinh năm 1919 ở Hà Tĩnh, mất năm 2005. Ông nổi bật trong phong trào thơ mới (1930-1945) với giọng thơ độc đáo. Trước Cách mạng tháng Tám, tác phẩm của ông thường thể hiện nỗi buồn và vẻ đẹp thiên nhiên như “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca”. Sau đó, thơ ông mang sắc thái lạc quan hơn, phản ánh cuộc sống kháng chiến, xây dựng đất nước như “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa”.

Bài thơ “Tràng Giang” là tác phẩm tiêu biểu trước Cách mạng tháng Tám, xuất phát từ tập “Lửa thiêng”. Viết khi đứng bờ Nam bến Chèm sông Hồng, ông cảm nhận cảnh vật mênh mông cùng nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé giữa dòng đời. Sự kết hợp giữa nét cổ điển và hiện đại tạo nên sức hấp dẫn cho bài thơ.

Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp….
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Nhà thơ đã tạo ra vẻ đẹp hòa quyện giữa cổ điển và hiện đại trong “Tràng giang”. Cách gọi “tràng giang” vừa lạ mà vừa quen khiến người đọc cảm nhận được dòng sông dài, rộng lớn, gợi liên tưởng đến Trường giang trong thơ Đường.

Tác phẩm thể hiện nỗi buồn của Huy Cận về kiếp người nhỏ bé giữa thiên nhiên bao la. Đây là nét quyến rũ của bài thơ, mang tinh thần hiện đại.

Câu đề “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” ngắn gọn nhưng chứa đựng cảm xúc chủ đạo. Trước không gian bát ngát, lòng người dấy lên nỗi “bâng khuâng”, thể hiện tâm trạng buồn, cô đơn.

Dòng “sông dài” như cuộn sóng, làm rung động trái tim người đọc, phản ánh những nỗi ưu tư của tác giả từ khổ thơ đầu:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ thể hiện rõ qua bốn câu đầu. Hai từ láy “điệp điệp”, “song song” mang sắc thái cổ kính của Đường thi, tạo hình ảnh sống động về sóng và dòng nước cuốn trôi xa.

Dưới dòng sông gợn sóng “điệp điệp”, có “con thuyền xuôi mái” lững lờ. Dù cảnh chuyển động, thiên nhiên vẫn mênh mông tĩnh lặng. Dòng “tràng giang” bát ngát, nỗi buồn con người cũng đầy ăm ắp trong lòng:

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Thuyền và nước vốn gắn bó, nhưng Huy Cận cảm nhận sự chia ly, “thuyền về nước lại” nghe thật xót xa. Điều này thể hiện nỗi “sầu trăm ngả”, từ “trăm” kết nối với “mấy” tạo nên nỗi buồn vô hạn.

Câu thơ “Củi một cành khô lạc mấy dòng” bộc lộ tâm hồn cô đơn của tác giả. Huy Cận sử dụng phép đảo ngữ và từ ngữ chọn lọc để thể hiện sự nhỏ bé, khô héo, lạc lõng, khiến người đọc cảm thấy trống trải.

Nét đẹp cổ điển “tả cảnh ngụ tình” của tác giả gợi lên nỗi buồn sâu sắc, đồng thời cũng mang đến vẻ đẹp hiện đại qua cách nói “Củi một cành khô”, phản ánh tâm trạng đơn côi trong không gian lạnh lẽo:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Hai từ “lơ thơ” và “đìu hiu” tạo nên cảnh vắng lặng. “Lơ thơ” thể hiện sự ít ỏi, “đìu hiu” gợi quạnh quẽ. Trong khung cảnh lạnh, con người cảm thấy cô đơn, thốt lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”.

Câu thơ mang nhiều sắc thái, vừa thể hiện nỗi khao khát âm thanh sống động, vừa phủ định sự tịch liêu xung quanh. Đôi mắt nhân vật dõi theo nắng và dòng sông:

“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

“Nắng xuống, trời lên” thể hiện sự chuyển động và chia lìa giữa nắng và trời. “sâu chót vót” là hình ảnh mới mẻ của Huy Cận, mang vẻ đẹp hiện đại. Đôi mắt thi sĩ không chỉ nhìn bề ngoài mà còn xuyên thấu vũ trụ bao la. Cảnh thiên nhiên mênh mông với “sông dài, trời rộng” khiến con người trở nên nhỏ bé và cô đơn với “bến cô liêu”.

Vẻ đẹp cổ điển qua các hình ảnh quen thuộc như sông, trời, nắng, phản ánh cuộc sống buồn tẻ với “vãn chợ chiều”. Nhà thơ tìm kiếm sự quen thuộc để làm ấm lòng trong giá lạnh, nhưng thiên nhiên lại đáp lại bằng hình ảnh quạnh quẽ, đìu hiu:

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Cánh bèo trôi trên sông thường thấy trong thơ cổ, biểu trưng cho sự bấp bênh của cuộc sống. Huy Cận không chỉ mô tả vài cánh bèo mà là “hàng nối hàng”, tạo cảm giác ngợp trước thiên nhiên, khiến lòng người thêm đau khổ, cô đơn.

Ngoài các cánh bèo, hình ảnh “bờ xanh tiếp bãi vàng” mở ra một không gian rộng lớn, thiên nhiên cứ thế tiếp nối, không có dấu vết của con người hay hoạt động nào:

Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.

Tác giả sử dụng cấu trúc phủ định “… không… không” để hoàn toàn phản ánh sự cô đơn, thiếu kết nối giữa con người. Trước mắt nhà thơ chỉ có thiên nhiên rộng lớn, còn cầu hay đò ngang dường như bị chìm trong không gian này. Huy Cận khéo léo thể hiện vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại của bầu trời:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Bút pháp chấm phá với “mây cao đùn núi bạc” thành “lớp lớp” khiến người đọc hình dung ra những ngọn núi mây trắng như dát bạc dưới nắng. Hình ảnh cổ điển, trữ tình, còn thêm thi vị nhờ cảm hứng từ tứ thơ Đỗ Phủ: Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Huy Cận khéo léo dùng động từ “đùn”, làm mây có sự sống động, từng lớp cứ tuôn ra mãi. Đây là nét thơ hiện đại, sáng tạo từ cổ điển. Nét hiện đại thể hiện rõ qua dấu hai chấm trong câu thơ sau.

Dấu hai chấm gợi mối liên hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, hay chính bóng chiều nặng nề lên cánh chim nhỏ. Câu thơ không chỉ mô tả không gian mà còn gợi thời gian, vì “cánh chim” và “bóng chiều” là hình tượng thẩm mỹ hoàng hôn trong thơ ca cổ điển, đồng thời phản ánh tâm trạng hiện đại.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *