Phân tích bài đoàn thuyền đánh cá: Ý nghĩa và giá trị nghệ thuật tác phẩm

Đoàn thuyền đánh cá là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Huy Cận, thể hiện rõ nét cuộc sống và tâm tư của người lao động Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước. Bài thơ không chỉ đơn thuần miêu tả hoạt động đánh cá mà còn là bức tranh sinh động về sự hứng khởi, niềm vui và niềm tự hào của con người trước vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên.

Qua từng câu thơ, Huy Cận đã khéo léo gửi gắm cảm xúc và tình yêu quê hương đất nước, từ đó tạo nên một không khí lao động sôi nổi và tràn đầy sức sống. Chúng tôi sẽ phân tích tác phẩm này để giúp độc giả cảm nhận sâu sắc hơn về không khí lao động hân hoan cùng vẻ đẹp kỳ diệu của thiên nhiên và tâm hồn con người Việt Nam trong bối cảnh lịch sử đầy biến động.

Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận hay nhất

Dàn ý Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá

Mở bài

  • Hãy cùng nhau khám phá tác giả Huy Cận và tuyệt phẩm “Đoàn thuyền đánh cá”! Huy Cận, người nghệ sĩ văn chương tài ba, đã khắc họa vẻ đẹp của biển cả và cuộc sống con người qua những vần thơ đầy cảm xúc.

Thân bài: Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá

Cảnh đoàn thuyền ra khơi và tâm trạng của ngư dân

  • Hình ảnh đoàn thuyền lướt sóng khi đêm về.
  • Bầu không khí huyền bí, cảm giác gần gũi từ những cảnh vật quen thuộc khi thuyền ra khơi giữa màn đêm.
  • Người ngư dân háo hức, đầy lạc quan, mang trên mình hy vọng về một chuyến đi thành công, nơi khoang thuyền sẽ trĩu nặng cá tươi mát vào ngày mai.

Cảnh đoàn thuyền đánh cá giữa biển khơi

  • Không gian rộng lớn, hùng vĩ nhưng đoàn thuyền cũng phô bày sức mạnh, đối diện với vẻ đẹp thiên nhiên.
  • Đánh cá như bước vào trận chiến ác liệt, không khác gì một cuộc giao tranh căng thẳng.
  • Đoàn thuyền kiêu hùng trong lòng biển cả bao la, tỏa sáng rực rỡ.
  • Niềm đam mê và sự nhiệt huyết của ngư dân lan tỏa qua từng cú quăng lưới.

Cảnh đoàn thuyền trở về bờ

  • Sự nhịp nhàng, đồng điệu của đoàn thuyền dường như tạo nên một bản hòa ca.
  • Những tiếng hát vang lên như lời chúc mừng cho niềm vui chiến thắng sau những ngày vất vả.
  • Cảnh khoang thuyền ngập tràn cá tươi roi rói.
  • Phông nền thiên nhiên kỳ vĩ tô điểm cho hình ảnh con người và đoàn thuyền trở thành tâm điểm nổi bật.

Kết bài

  • Thêm một lần nữa, tán dương tài năng xuất sắc của thi sĩ Huy Cận.
  • Chia sẻ cảm nhận về tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá”.

Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận

Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá mẫu 1

Huy Cận là nhà văn nổi bật của phong trào Thơ mới trước 1945, với tác phẩm như Lửa Thiêng, Vũ trụ ca. Sau Cách mạng, ông tham gia kháng chiến và sáng tác thơ ấm áp về cuộc sống. Đoàn thuyền đánh cá được viết năm 1958 ở Hòn Gai, là một trong những bài thơ hay của Việt Nam hiện đại.

Nhà thơ đã tạo ra khung cảnh lao động trên biển tuyệt vời, bài thơ như bức tranh sống động cuốn hút người đọc.

Mặt trời xuống biến như hòn lửa

Sóng đã cài then, đập sập cửa
Đoàn  thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Đoàn thuyền ra khơi khi mặt trời lặn, đỏ rực như hòn lửa. Đêm xuống, ngư dân bắt đầu công việc quen thuộc. Biển đêm lạnh nhưng ấm áp bởi tiếng hát vui vẻ của người lao động. Câu hát kết hợp với gió thổi căng buồm, khiến ta tưởng tượng đến hình ảnh thuyền phăng phăng trên biển. Cánh buồm đầy gió thể hiện khí thế xây dựng đất nước.

Lời hát ca ngợi sự giàu có và vẻ đẹp bí ẩn của đại dương. Tác giả đã tạo nên khung cảnh vừa thực tế vừa huyền ảo:

Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biên muôn luồn sáng
Đến dệt lưới ta, đàn cá ơi!

Vẻ đẹp huyền diệu của biển giúp xua tan nỗi nhọc nhằn, mang lại niềm vui và hạnh phúc cho con người đối mặt thiên nhiên, làm chủ cuộc sống.

Cảnh đánh cá đêm được Huy Cận quan sát kĩ lưỡng, miêu tả đầy cảm hứng trữ tình. Tác giả như hòa mình vào thiên nhiên, công việc và con người:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt mữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Hình ảnh lái gió, buồm trăng, mây cao, biển yên ả mang đậm vẻ thơ cổ điển nhưng vẫn tươi mới. Chuyến ra khơi đánh cá như trận chiến; tìm bãi cá, dàn thế trận giăng lưới để thu hoạch thành quả sau đêm lao động.

Ngư dân đã sống gắn bó với biển bao đời, thuộc từng loài cá, tên gọi và thói quen của chúng như nằm trong lòng bàn tay:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cá đuôi em quẫy trăng vầng chóe.
Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long.

Trên biển đêm, ánh trăng lung linh chiếu sáng, cá nhảy múa, sóng xô vàng. Bài ca gọi cá vang vọng, lúc hào hứng, lúc da diết. Trăng thức cùng ngư dân, giúp họ làm việc hiệu quả, gợi nhịp hát bên thuyền. Thiên nhiên và con người hòa quyện.

Bóng đêm tan dần, ban ngày đến gần, công việc sôi động hơn:

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Công sức của người nông dân đã được đền đáp. Ngư dân lực lưỡng, nghiêng mình kéo mẻ cá nặng. Hình ảnh họ hiện lên trong ánh bình minh rực rỡ. Tia nắng vàng chiếu sáng những con cá lấp lánh sắc màu, tạo nên khung cảnh tuyệt đẹp. Nhịp điệu thơ chậm rãi, thể hiện sự bình yên và vui tươi, phản ánh tâm trạng thoải mái của họ sau chuyến ra khơi thành công.

Khổ thơ cuối diễn tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:

Câu hát căng buồm cùng với gió khơi,
Đoàn thuyên chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Âm thanh vang vọng từ người ngư dân dày dạn kinh nghiệm, khẳng định cuộc sống của mình. Tiếng hát hòa quyện trong gió, đẩy cánh buồm đưa thuyền ra khơi, nay lại rộn ràng trở về với cá đầy khoang. Đoàn thuyền đua cùng mặt trời là hình ảnh sinh động và hào hùng, thể hiện thói quen ngư dân đem cá về trước khi bình minh và khí thế mạnh mẽ trong xây dựng Tổ quốc sau giải phóng.

Tìm hiểu thêm:  Phân tích bài thơ qua đèo ngang: Ý nghĩa và hình ảnh tiêu biểu trong thơ

Cùng niềm vui chung, nhà thơ kết nối trí tưởng tượng bay bổng. Đoàn thuyền lướt sóng, mặt trời mọc lên rực rỡ, ánh sáng phản chiếu từ hàng ngàn con cá tạo nên cảnh sắc tươi vui. Bức tranh biển cả tràn đầy sức sống, thể hiện nét đẹp của con người và thiên nhiên.

Đoàn thuyền đánh cá là biểu tượng cho lao động hào hùng. Nhà thơ ca ngợi vẻ đẹp của biển cả – nguồn tài nguyên vô tận, và những người lao động miệt mài mang lại cuộc sống cho hàng triệu người Việt. Cảm hứng trữ tình và nghệ thuật tài hoa của Huy Cận vẫn giữ nguyên giá trị, ca ngợi hình ảnh người lao động. Bài thơ phản ánh tinh thần mới của Huy Cận sau bao thăng trầm lịch sử – một Huy Cận trữ tình cách mạng.

Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá mẫu 2

Huy Cận, một trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ hiện đại Việt Nam, thể hiện tâm hồn lãng mạn qua thiên nhiên và con người. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” viết năm 1958, mô tả hình ảnh người lao động trên biển trong cảnh hoàng hôn và bình minh.

Chủ đề “Con người lao động” đã truyền cảm hứng cho nhiều nhà thơ, trong đó có Huy Cận, ông khắc họa ngư dân vùng biển Hạ Long:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Câu thơ mở đầu mô tả mặt trời đỏ rực lặn xuống biển, để lại màu tím của hoàng hôn. So sánh “Mặt trời như hòn lửa” gợi lên vẻ đẹp tráng lệ của khung cảnh. Khi màn đêm buông xuống, không gian trở nên yên tĩnh nhưng lại có “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”.

Hình ảnh này thể hiện tinh thần lao động của ngư dân, họ cần cù, quên mệt mỏi để lo cho người khác và xây dựng đất nước. Giữa đêm tối, tiếng hát của người dân hòa cùng gió biển giúp thuyền ra khơi. Câu hát biểu thị sự kết hợp giữa con người và thiên nhiên, thể hiện tâm thế lạc quan dù công việc có khó khăn.

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!

Các ngư dân quen thuộc với biển và thuộc lòng tên các loài cá như cá bạc hay cá thu. So sánh “Cá thu như đoàn thoi” gợi hình ảnh sống động, ca ngợi nguồn tài nguyên phong phú của biển Quảng Ninh. Nhà thơ miêu tả cá thu như những chiếc thoi dệt nên vải lấp lánh, mời gọi chúng vào lưới. Câu hát không chỉ thể hiện sự lạc quan mà còn là biểu tượng cho công việc đánh bắt cá, trở thành bài ca trong lao động.

Với trí tưởng tượng phong phú, ngòi bút lãng mạn, nhà thơ tạo ra hình ảnh huyền ảo:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biểm
Dan đan thế trận lưới vây giăng.

Đoàn thuyền cá ra khơi, gió làm bánh lái, vầng trăng khuyết như cánh buồm. Gió và trăng hòa hợp giúp ngư dân thành công. Trước mắt nhà thơ, đoàn thuyền như những tác phẩm nghệ thuật trên biển, in hình trăng sao. Ngư dân thời mới là chủ biển, trang bị hiện đại, đánh bắt cá phục vụ đổi mới. Tưởng tượng và cách diễn đạt tạo ra hình ảnh đẹp về cuộc chiến săn cá. Thuyền lớn hùng dũng, con người chuẩn bị vào trận chiến. Nhà thơ nâng cao giá trị con người bên biển cả và vũ trụ.

Ngư dân đã gắn bó với biển từ lâu, họ hiểu rõ các loài cá, tên tuổi và thói quen của chúng:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cá đuôi em quẫy trăng vàng chóa,
Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long.

Trên biển đêm, ánh trăng lấp lánh, cá nhảy múa, sóng hòa cùng ánh sáng vàng. Bài hát “gọi cá” luôn ngân vang, đầy cảm xúc. Trăng cùng ngư dân, cùng sóng vỗ về thuyền, như nhịp điệu cho tiếng hát. Ánh trăng giúp người đánh bắt được nhiều cá. Thiên nhiên và con người hòa quyện thật đẹp.

Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Công sức của ngư dân đã được đền bù. Họ dồn hết sức lực vào đôi tay để kéo lên những mẻ lưới, thành quả cho một đêm dài vất vả. Bóng dáng họ hiện lên trong ánh sáng bình minh, cùng với tia nắng chiếu rọi sáng lấp lánh trên khoang cá và màu sắc sống động của các loài cá. Nhịp điệu chậm rãi ở câu thơ cuối mang đến cảm giác bình yên nhưng vui tươi, phản ánh tâm trạng hạnh phúc của ngư dân trước kết quả tốt đẹp.

Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn  thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Nhà thơ sử dụng bút pháp khoa trương để tái hiện tiếng hát ngư dân, thổi sức sống vào cánh buồm, giúp thuyền cập bến. Có sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người, thể hiện tinh thần lạc quan, vui mừng sau những ngày lao động vất vả trên biển. Câu hát mở đầu và kết thúc bài thơ tạo sự liên kết. Tác giả hình dung biển như một cuộc đua giữa con người và mặt trời, khẳng định sức mạnh của con người ngang với thiên nhiên. Hòa cùng niềm vui của ngư dân, tác giả miêu tả cảnh biển sống động, ánh mặt trời rực rỡ phản chiếu trong mắt cá, tạo nên bức tranh rực rỡ, đầy sức sống.

Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá mẫu 3

Khi đến với thơ Huy Cận, bài “Đoàn thuyền đánh cá” gây ấn tượng mạnh mẽ. Tác phẩm thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên và sự phong phú của biển cả.

Bài thơ được sáng tác năm 1958 trong chuyến thực tế ở Hòn Gai. Huy Cận đã mô tả khung cảnh lao động sôi nổi trên biển với con mắt nhạy bén và trí tưởng tượng phong phú, tạo ra bức tranh sinh động về cuộc sống.

Trong khổ thơ đầu tiên, tác giả khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên và hình ảnh đoàn thuyền rời bến:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
….
Câu hát căng buồm với gió khơi”

Đoàn thuyền khởi hành khi hoàng hôn buông xuống, mặt trời sau một ngày lao động chuẩn bị nghỉ ngơi. Hình ảnh “mặt trời lặn như hòn lửa” tạo nên bức tranh thiên nhiên đỏ rực.

Tìm hiểu thêm:  Phân tích bài thơ viếng lăng bác: Ý nghĩa, hình ảnh và cảm xúc sâu sắc

Mặt trời dần chìm trong đại dương mênh mông, màn đêm từ từ buông xuống. Biển lúc này tựa như gian phòng lớn của thiên nhiên, nơi “sóng đã cài then đêm sập cửa”. Ngư dân bắt đầu công việc quen thuộc ra khơi đánh cá. Tiếng hát vang lên hòa cùng gió, căng buồm đưa thuyền ra khơi, ca ngợi sự giàu có và vẻ đẹp lung linh của biển trong đêm:

“Hát rằng cá bạc biển đông lặng
….
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”

Vẻ đẹp của biển giúp công việc trở nên nhẹ nhàng hơn. Cảnh đánh cá đêm được nhà thơ thể hiện đầy cảm xúc. Huy Cận như hòa mình vào lao động cùng ngư dân:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Thông qua hình ảnh độc đáo, con thuyền nhỏ bé đã trở thành biểu tượng vĩ đại, hòa vào không gian rộng lớn của tự nhiên. Ta có thể hình dung nó bay giữa vũ trụ bao la.

Hình ảnh như “lái gió”, “buồm trăng”, “mây cao” phảng phất vẻ đẹp cổ điển nhưng vẫn mang tính hiện thực. Chuyến ra khơi bắt cá như một trận chiến đấu, tìm tòi và bủa vây bằng lưới. Người ngư dân hiểu rõ biển cả, thuộc tên và thói quen từng loài cá:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
….
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”

Màn đêm tĩnh lặng, ánh trăng lấp lánh xuống mặt nước, cá quẫy đuôi trong ánh sáng vàng. Tiếng “em” vang vọng tự nhiên và trìu mến. Đây không phải chỉ là bài ca ra khơi mà còn là âm thanh gọi cá.

Ánh trăng như người bạn đồng hành, thức cùng ngư dân, nhịp nhàng cùng sóng bên thuyền, làm nền cho tiếng hát, và chiếu sáng giúp họ thu hoạch cá. Hình ảnh “biển cho ta cá như lòng mẹ” thể hiện tình yêu thương của biển dành cho con người.

Cuối cùng, sức lao động đã được đền đáp xứng đáng:

“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
…..
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Họ đang sử dụng sức mạnh đôi tay để kéo những mẻ lưới nặng trĩu. Màu sắc đa dạng và lấp lánh của cá làm cho bức tranh buổi bình minh thêm phần rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ “lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” mang lại cảm giác thanh bình, vui vẻ, thể hiện niềm phấn khởi của ngư dân.

Kết thúc, khổ thơ cuối miêu tả sự trở về của đoàn thuyền đánh cá:

“Câu hát căng buồm với gió khơi
…..
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Tiếng hát xuyên suốt bài thơ, hoà cùng gió, giúp đoàn người ra khơi và trở về với cá tươi. Hình ảnh “đoàn thuyền đua cùng mặt trời” vừa thực tế vừa biểu tượng, thể hiện thói quen của ngư dân về việc đưa cá về trước bình minh và tâm thế sẵn sàng cho công việc mới.

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” gợi cảm hứng lao động của ngư dân và niềm tự hào về thiên nhiên, con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá mẫu 4

Huy Cận là nhà thơ nổi bật trong phong trào Thơ mới. Tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá” của ông thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên và sự hòa quyện với con người lao động, bộc lộ niềm vui và tự hào về đất nước.

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh thiên nhiên và đoàn thuyền ra khơi:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
…..
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Cách so sánh “mặt trời xuống biển” với “hòn lửa” thể hiện sắc đỏ rực và hình dáng tròn của mặt trời, gợi lên thời khắc hoàng hôn. Biển được nhân hóa như một ngôi nhà rộng lớn, nơi đêm là cửa ra vào, sóng là khóa hơn. Thiên nhiên bắt đầu thời gian nghỉ ngơi, tận hưởng bình yên.

Ngược lại, con người lại khởi động công việc. “Đoàn thuyền” không chỉ là một thuyền mà là tập thể lao động cùng nhau. Câu “lại ra khơi” cho thấy đây là công việc quen thuộc. Ảnh “câu hát căng buồm” tạo không khí người lao động cất tiếng hát, tiếp thêm sức mạnh để ra khơi. Khi mọi vật nghỉ ngơi, những ngư dân bắt đầu hành trình lao động.

Ở khổ thơ tiếp theo, Huy Cận nổi bật hình ảnh người ngư dân:

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
…..
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”

Câu hát của ngư dân không chỉ thể hiện tâm hồn lạc quan, mà còn bày tỏ mong ước bình yên trên biển. Công việc đánh cá vất vả khiến họ khao khát trời yên, biển lặng và nhiều cá để dễ dàng đánh bắt. Những hình ảnh so sánh, nhân hóa làm nổi bật con người lao động.

Khung cảnh đánh cá cũng được nhà thơ miêu tả rõ nét:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
…..
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Khổ thơ tạo nên bức tranh rực rỡ với hình ảnh gió, trăng, mây bằng ngôn ngữ lung linh. Đặc biệt là hình ảnh “con thuyền lái gió với buồm trăng” vừa hiện thực vừa lãng mạn, thể hiện thiên nhiên đồng hành cùng người ngư dân.

Nghệ thuật phóng đại “lướt giữa mây cao với biển bằng” làm nổi bật con thuyền như tấm ván lớn giữa không gian bao la. Công việc đánh cá diễn ra ngay trong đêm, thể hiện sự miệt mài của ngư dân. Họ phải dùng trí tuệ để vượt qua thiên nhiên, cho thấy tinh thần lạc quan, hăng hái.

Nhà thơ đã dành một khổ thơ riêng ca ngợi sự giàu có của biển cả:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
…..
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”

Biện pháp liệt kê được dùng rõ rệt với nhiều tên gọi cá quý như cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song. Hình ảnh “lấp lánh đuốc đen hồng” gợi đến màu sắc cá song. Cách miêu tả “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” thật nên thơ.

Người đọc dễ dàng hình dung ánh trăng phản chiếu dưới biển, cá quẫy đuôi tạo sóng vàng. Âm thanh từ biển “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long” làm màn đêm sống động. Điều này cho thấy tình yêu với biển của Huy Cận rất sâu sắc.

Khởi đầu bài thơ là tiếng hát căng buồm ra khơi, giờ đây là khúc ca gọi cá. Tiếng hát giúp xua tan mệt mỏi, công việc trở nên vui vẻ hơn:

“Ta hát bài ca gọi cá vào,
…..
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

Nhà thơ miêu tả biển với lòng bao dung, thể hiện sự biết ơn: “biển cho ta cá như lòng mẹ” – biển nuôi dưỡng người dân miền biển.

Tìm hiểu thêm:  Phân tích bài thơ Con Cò: Ý nghĩa và hình ảnh trong văn học Việt Nam

Sau một đêm làm việc vất vả, họ đã gặt hái thành quả xứng đáng:

“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
…..
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Khi kéo lưới, trời vừa sáng – lao động liên tục nhưng không thấy mệt mỏi. Hình ảnh “tay kéo xoăn tay chùm cá nặng” thể hiện sức khỏe của ngư dân khi thu hoạch được nhiều cá. Đặc biệt là hình ảnh cá trên thuyền “Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”, biểu trưng cho thời điểm kết thúc công việc và lúc bình minh.

Bài thơ khép lại với hình ảnh đoàn thuyền trở về:

“Câu hát căng buồm với gió khơi,
…..
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Câu hát vang lên từ lúc ra khơi đến lúc trở về, thể hiện niềm vui và phấn khởi. Bình minh được miêu tả thật đẹp. Con thuyền trở về vội vàng “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”, phản ánh thói quen của ngư dân đưa cá về trước sáng, đồng thời thể hiện khí thế mạnh mẽ trong xây dựng đất nước. Nhà thơ hòa nhập vào nỗi vui mừng chung.

“Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động hào hùng. Từng câu thơ cho thấy vẻ đẹp thiên nhiên, sự phong phú của biển cả và niềm tự hào về những người lao động mới, làm chủ cuộc sống của mình.

Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá mẫu 5

Huy Cận là nhà thơ nổi bật của thơ hiện đại Việt Nam, với hồn thơ lãng mạn về thiên nhiên và con người trong thời đại mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” sáng tác năm 1958 khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bài thơ miêu tả cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá vào lúc hoàng hôn và bình minh.

Đề tài “Con người lao động” luôn khơi gợi cảm hứng cho các nhà thơ, và Huy Cận cũng chọn viết về ngư dân vùng biển Hạ Long xinh đẹp:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

……

Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”

Câu thơ đầu miêu tả mặt trời như hòn lửa to từ từ lặn xuống biển, để lại sắc tím hoàng hôn. So sánh “Mặt trời như hòn lửa” thể hiện vẻ đẹp rực rỡ của thiên nhiên lúc này. Sắc màu tuyệt diệu nhanh chóng nhường chỗ cho bóng đêm, với hình ảnh sóng như chiếc then cài, và màn đêm là cánh cửa.

Vũ trụ rộng lớn như một ngôi nhà yên tĩnh, trong khi màn đêm thử thách lòng người. Nhưng ở đó, ta thấy “Đoàn thuyền đánh cá ra khơi”, biểu tượng cho những ngư dân bắt đầu ngày làm việc. Từ “lại” cho thấy sự lặp lại truyền thống lao động không biết mệt mỏi của họ.

Tối qua, mặt biển trở nên sống động với tiếng hát ngư dân. Câu hát cùng gió biển nâng cánh buồm, thúc giục thuyền ra khơi nhanh hơn. Bút pháp “Câu hát căng buồm” thể hiện sức mạnh của người lao động và sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người. Câu hát mang tinh thần lạc quan, niềm vui lao động và hy vọng vào chuyến đi thành công:

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”

Trong bài hát của ngư dân, có những loài cá như cá bạc, cá thu. So sánh “Cá thu như đoàn thoi” vừa gợi hình ảnh sống động vừa ca ngợi tài nguyên biển Quảng Ninh. Nghệ thuật kết hợp hiện thực và lãng mạn, đôi mắt nhà thơ ngắm nhìn đàn cá như những chiếc thoi dệt vải rực rỡ.

“Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi” là lời mời gọi đoàn cá. Câu hát không chỉ thể hiện sức mạnh, tinh thần lạc quan mà còn tôn vinh vùng biển giàu có và hữu ích cho nghề đánh cá, trở thành bài ca lao động.

Với trí tưởng tượng phong phú và ngòi bút lãng mạn, nhà thơ đã đem đến hình ảnh tuyệt đẹp:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

….

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”

Đoàn thuyền đánh cá ra khơi, gió làm bánh lái và vầng trăng khuyết biến thành cánh buồm. Gió và trăng hỗ trợ ngư dân, thể hiện sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên. Đoàn thuyền giống như những chiếc thuyền thơ lướt nhẹ trên mặt biển đầy ánh sáng. Họ đang “Ra đậu dặm xa dò bụng biển”.

Những chiếc thuyền lớn hiên ngang như thuyền chiến, con người thả lưới chuẩn bị cho cuộc chiến lao động mới. Nhà thơ nâng cao hình ảnh con người bên biển cả vũ trụ.

Người ngư dân có mối gắn bó sâu sắc với biển cả, họ biết rõ tên, dáng và thói quen của nhiều loài cá:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,

…..

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”

Đêm trên biển, ánh trăng lung linh, cá nhảy múa, sóng phản chiếu ánh sáng. Bài hát “gọi cá” vang vọng, lúc hồn nhiên, lúc sâu lắng. Ánh trăng hỗ trợ ngư dân, sóng cùng nhịp mái thuyền như “điểm phách” cho tiếng hát. Trăng giúp người kéo được cá đầy. Thiên nhiên và con người hòa quyện.

Bóng đêm dần tan, ngày đến, công việc trở nên sôi nổi hơn:

“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng

….

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”

Công lao khó nhọc đã được đền đáp. Hình ảnh ngư dân dồn sức kéo lưới nặng, thật tuyệt vời! Bóng họ in trên bầu trời hồng buổi sáng. Ánh nắng chiếu sáng cá trải đầy khoang, làm lấp lánh “vẩy bạc, đuôi vàng” và sắc màu đa dạng khiến cảnh vật thêm rực rỡ.

Khi ra khơi hát vang, họ cũng sẽ vui mừng cất cao tiếng hát khi hoàn thành:

“Câu hát căng buồm với gió khơi

….

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”

Nhà thơ diễn tả hình ảnh ngư dân hát, gió thổi căng buồm, đưa thuyền về bến nhanh hơn. Sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người thể hiện tinh thần lạc quan, niềm vui lao động sau những ngày vất vả trên biển.

Câu hát ở đầu và cuối bài thơ tạo sự liên kết. Qua trí tưởng tượng, khung cảnh sống động, mặt biển như trường đua giữa con người và mặt trời, chắc chắn con người sẽ chiến thắng với những khoang thuyền đầy cá.

Bài thơ phản ánh tinh thần lao động và vẻ đẹp quê hương, tài nguyên phong phú. Tác giả thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người, khí thế hào hùng của đất nước trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Hình ảnh ngư dân chăm chỉ, mặc dù khó khăn nhưng vẫn lạc quan, góp phần vào đổi mới đất nước. Tác giả đã làm nổi bật không khí tươi vui và sức mạnh của nhân dân trong thời kỳ này.

Trên đây là nội dung về Phân tích Đoàn thuyền đánh cá. Mong rằng thông tin hữu ích cho quý bạn đọc.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *