Phân Tích Bài Thơ Việt Bắc: +4 Mẫu Bao Điểm Cao Cho Anh Em Thi Cử

Phân tích Bài thơ Việt Bắc: Đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Tố Hữu, ra đời năm 1954, ngay sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Bài thơ thể hiện tình cảm sâu nặng của tác giả với mảnh đất Việt Bắc – địa bàn cách mạng, nơi chứa đựng bao kỉ niệm hào hùng và thiêng liêng. 

Qua những câu thơ trữ tình, lãng mạn, Tố Hữu đã gợi lên một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng, đồng thời khắc họa chân dung của con người Việt Bắc với những phẩm chất cao đẹp, lòng yêu nước nồng nàn. Bài thơ cũng thể hiện tâm trạng lưu luyến, bồi hồi của người cán bộ cách mạng khi rời xa nơi đây để tiếp tục hành trình chiến đấu mới.

+4 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Việt Bắc: Bao Điểm Cao Cho Anh Em Thi Cử

Dàn ý Phân tích bài thơ Việt Bắc

I. Mở bài Phân tích bài Việt Bắc

“Chín năm làm một Điện Biên

Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”.

(Tố Hữu).

– Chặng đường kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, tháng 10.1945, Đảng và chính phủ từ Việt Bắc về Hà Nội. Trong buổi chia tay với đồng bào, Tố Hữu viết bài thơ “Việt Bắc”.

– Bài thơ là khúc giao duyên, lời nhắn gửi giữa người ra đi và ở lại, thể hiện tình cảm thắm thiết và nỗi nhớ. “Việt Bắc” thể hiện tài năng và phong cách của Tố Hữu.

II. Thân bài Phân tích bài Việt Bắc

1. Hai mươi câu thơ đầu: Kỉ niệm kháng chiến qua đó bộc lộ tình quân dân thắm thiết

– Lời nhắn nhủ của người Việt Bắc:

+ Bốn dòng thơ đầu có hai câu hỏi tu từ, người ở lại hỏi người ra đi có còn nhớ “ta” là người nơi đây, hỏi nhớ “núi, nguồn” là nhớ mảnh đất đã từng chung sống, gắn bó 15 năm nghĩa tình. Câu hỏi mượn cớ nhưng thực ra là nhắc nhở, nhắn nhủ người về xuôi đừng quên mảnh đất tình người.

→ Sự tình chung, tình cảm đạo lí. Hiệu quả của nghệ thuật câu hỏi tu từ để bộc lộ cảm xúc người nói, người ở lại kín đáo bộc lộ nỗi nhớ và tình yêu dành cho người về xuôi không phai mờ, trân trọng.

+ Lời giãi bày của nhà thơ, tự nhắc nhở mình

– Tâm sự của người về xuôi trong buổi chia tay

Bốn câu thơ gợi không khí chia tay bên bến sông với tiếng hát nhẹ nhàng, những nhân vật lưu luyến, tay nắm chặt, xúc động không lời. Tất cả tạo nên bầu không khí ngập tràn tình cảm quân dân.

Từ láy “bâng khuâng, bồn chồn” thể hiện tâm trạng xao xuyến khi phải rời xa, nỗi lòng thương nhớ dành cho Việt Bắc.

“Áo chàm” là hình ảnh ẩn dụ về tâm hồn chân thật và sâu nặng của người Việt Bắc.

– Chia tay khơi dậy kỷ niệm khó khăn ở chiến khu.

“Mưa nguồn suối lũ” biểu thị sự khắc nghiệt mùa mưa ở Việt Bắc, cuộc sống thêm gian nan.

“Những mây cùng mù” làm nổi bật bầu trời u ám, ám chỉ những khó khăn trong kháng chiến.

“Miếng cơm chấm muối” phản ánh những thiếu thốn ở chiến khu.

Khi gian khổ có nhau, giờ phút chia tay khiến lòng người xao xuyến. “Rừng núi” ám chỉ người Việt Bắc, nỗi nhớ kín đáo, đại từ “ai” mang phong cách giản dị.

Người Việt Bắc nhắc về lịch sử kiên cường và tự hào về quê hương anh hùng…

⇒ Đoạn thơ diễn tả tình cảm sâu sắc của người Việt Bắc dành cho cán bộ chiến sĩ.

2. Những tâm sự của người ra đi

– “Ta với mình, mình với ta” thể hiện tấm lòng chung thủy, gắn bó giữa người đi và kẻ ở.

– Người ra đi luôn nhớ về thiên nhiên, trăng trong chiều tà, nắng mai, rừng nứa và những mùa bên nhau.

– Nhớ con người Việt Bắc dù gian khó nhưng không ngại vượt qua, cùng chia sẻ trong đói rét. Nhớ kỷ niệm bên bộ đội và đồng bào, các điệu hát giản dị.

– Hình ảnh đoàn kết, mạnh mẽ xông pha đánh giặc.

– Những chiến công vang dội, niềm vui chiến thắng.

⇒ Tình cảm của người chiến sĩ dành cho quê hương Việt Bắc cũng chính là tình yêu của nhà thơ dành cho nhân dân và kháng chiến.

3. Bức tranh tứ bình qua cái nhìn đầy ưu ái của Tố Hữu

– Lời tâm sự tha thiết và sâu lắng.

“Hoa và người” thể hiện nỗi nhớ cụ thể.

Đại từ “mình-ta” thể hiện tình yêu thương gắn bó.

Điệp từ “ta về” diễn tả nỗi xao xuyến trong chia tay, gợi nhớ quá khứ.

– Trong nỗi nhớ, hiện lên bức tranh kết nối giữa cảnh và người.

Thiên nhiên qua 4 mùa với bút pháp chấm phá, hồn thơ cổ điển.

Mùa đông với sắc đỏ hoa chuối rực rỡ, không gian trở nên ấm áp.

Mùa xuân Việt Bắc màu xanh lá điểm trắng hoa mơ, động từ “nở” gợi vẻ đẹp tươi mới.

Mùa hè với sắc vàng của rừng phách, phong cảnh sống động.

Mùa thu huyền ảo với đêm trăng, mang theo ước mơ tương lai.

– Đoạn thơ khép lại bằng “khúc hát ân tình thủy chung”, tiếng hát của người ở lại và ra đi, mang hy vọng và tình quân dân sâu sắc.

⇒ Tác phẩm mở ra bức tranh thiên nhiên và con người đẹp, thể hiện tình cảm cao đẹp của nhà thơ.

4. Còn lại: Việt Bắc rộng lớn trong tháng ngày ra trận hào hùng.

– Bút pháp sử thi thể hiện sức mạnh đoàn quân khải hoàn trên đường ra trận.

Điệp từ “đêm đêm” gợi thời gian dài, âm thanh “rầm rập” và nhịp thơ 2/2 tạo nên bước chân hành quân vững chắc.

Biện pháp nói quá “đất rung” cho thấy sức mạnh phi thường của đoàn quân.

Chân dung đoàn quân biểu trưng cho tinh thần anh hùng dân tộc.

– Dù hành quân gian nan, chiến sĩ vẫn cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên, thể hiện lòng yêu đời lạc quan.

Hoán dụ “mũ nan” tượng trưng cho tình quân dân, tiếp thêm sức mạnh chiến đấu.

Hình ảnh súng và sao mang tính biểu tượng; súng gợi cảnh chiến tranh, sao tượng trưng cho tương lai tươi sáng.

– Hình ảnh đoàn dân công

Ánh đuốc sáng tạo không khí lao động phấn khởi, biểu hiện sức mạnh và niềm tin.

“Bước chân nát đá” thể hiện sức mạnh to lớn của dân công.

Đoàn dân công có vẻ đẹp anh hùng trong cuộc chiến trường.

– Đoàn quân thu về nhiều chiến công vang dội, làm chấn động đất trời.

Liệt kê địa danh để thể hiện chiến thắng liên tiếp, hào hứng.

Điệp từ “vui” diễn tả niềm phấn khích của chiến thắng.

⇒ Đoạn thơ thể hiện hình ảnh Việt Bắc trong những ngày ra trận, ca ngợi tinh thần anh hùng của đất nước.

III. Kết bài Phân tích bài Việt Bắc

Việt Bắc là tác phẩm nổi bật của Tố Hữu, hòa quyện giữa cổ điển và hiện đại, cảnh và người, tình cảm và lý trí, mang đậm chất thơ dân gian và sử thi anh hùng.

Phân tích bài thơ Việt Bắc mẫu 1

Văn học kháng chiến vẫn rất quan trọng trong văn học Việt Nam. “Việt Bắc” của Tố Hữu là tác phẩm nổi bật, phản ánh tiếng nói của quân dân trong kháng chiến, thể hiện tình đoàn kết qua tài năng của tác giả.

Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ Cách mạng, gắn liền với cuộc đời cách mạng. Thơ ông vừa hào hùng vừa sâu sắc, ngôn từ giản dị nhưng mang đậm chính trị.

Bài thơ “Việt Bắc” ra đời sau chiến thắng 1954, ghi dấu một thời kỳ trọng đại, không chỉ là căn cứ mà còn là nơi sống và chiến đấu của nhân dân. Tố Hữu viết để nhắc lại tình quân dân, tâm tư dân tộc.

Tác giả thể hiện cảm xúc của người dân khi cán bộ rời đi, thể thơ lục bát tạo nên sự thủ thỉ, lưu luyến:

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”

Phân tích “Việt Bắc” cho thấy thơ thể hiện nỗi nhớ người ở lại khi chia xa chiến sĩ cách mạng. Tác giả sử dụng “ta” và “mình” để thể hiện gắn bó giữa cán bộ và nhân dân. Thời gian “mười lăm năm” gắn liền với cuộc đấu tranh chống Pháp, đem lại cảm xúc mãnh liệt. Cả người ra đi và ở lại đều đầy nỗi nhớ, hình ảnh quá khứ sống động trong tâm hồn. Tố Hữu khéo léo gợi lên cảm giác vấn vương trong lòng độc giả.

Tâm trạng quyến luyến của người ở lại khiến kẻ ra đi thấy bồn chồn; không ai muốn rời xa.

“Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Lời chân thành của người ở lại khiến kẻ ra đi cảm thấy lưu luyến. Tâm trạng “bâng khuâng” thể hiện nỗi buồn và mơ hồ nhớ về chia ly. Cảm xúc này thật khó diễn tả.

Người ra đi và người ở lại không hiểu vì sao như vậy. Phải chăng tình yêu và kỷ niệm quá đậm sâu? Sau 15 năm gắn bó, họ đã cùng nhau trải qua bao điều vui buồn. Những trải nghiệm đó làm cảm xúc thêm mãnh liệt, khó quên. Người ra đi đáp lại tình cảm của người ở lại.

“Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”

“Ta” và “mình” trở thành một thể thống nhất, không thể tách rời. Người ra đi khẳng định “mặn mà đinh ninh”, thể hiện lòng trung thành, kiên định. Đó là tình cảm thiêng liêng.

Khi nhớ về Việt Bắc, tác giả hình dung toàn bộ thiên nhiên và con người nơi đây sống động, giàu ý nghĩa. Những nét phác họa về núi rừng hiện lên trọn vẹn và đẹp đẽ:

“Ta về mình có nhớ ta

Tìm hiểu thêm:  Phân tích bài thơ đoàn thuyền đánh cá: Ý nghĩa và hình ảnh trong tác phẩm

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vang

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Bức tranh tứ bình rực rỡ về núi rừng Việt Bắc, không chỉ có thiên nhiên đẹp mà còn thể hiện lòng người mộc mạc nhưng đầy tình cảm. Đây là đoạn thơ sâu sắc và lãng mạn nhất trong bài thơ Việt Bắc, điểm sáng cho tình yêu thương và tinh thần lạc quan.

Điệp từ “nhớ” xuất hiện nhiều lần, làm dâng trào nỗi nhớ, phản ánh cảm xúc mãnh liệt của tác giả.

Tố Hữu không chỉ nhớ cảnh vật, con người Việt Bắc mà còn ghi nhớ những cuộc chiến tranh gian khổ đã qua:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”

Giọng thơ giờ không còn nhẹ nhàng mà trở nên hào hùng khi nói về cuộc chiến của quân dân ta. Những trận đánh diễn ra ở Việt Bắc, để lại dấu ấn sâu sắc. Thiên nhiên cũng đồng hành cùng người chiến sĩ để “vây quân thù”.

Hào khí Đông A sống dậy mạnh mẽ, thể hiện niềm tự hào vĩnh cửu. Chiến thắng và tình đoàn kết sẽ luôn được ghi nhớ.

Với thể lục bát và hình ảnh độc đáo, “Việt Bắc” khắc họa sự kiện lịch sử quan trọng. Bài thơ tái hiện một chặng đường hào hùng, gắn bó giữa quân và dân – yếu tố quyết định mang đến chiến thắng. Những con người phi thường, tận tâm vì đất nước và lý tưởng cách mạng.

Phân tích bài thơ Việt Bắc mẫu 2

Thơ Tố Hữu thể hiện tiếng nói dân tộc, tâm hồn gắn bó với cách mạng và quê hương. Trong đó, bài thơ Việt Bắc nổi bật với tình cảm sâu sắc, trữ tình và trung thành với nhân dân.

Tố Hữu (1920-2002), tên thật là Nguyễn Duy Thành, người Quảng Thọ, Thừa Thiên Huế, là nhà thơ lớn và tiên phong của thơ ca cách mạng. Thơ ông mang tính trữ tình chính trị, hòa quyện giữa cái tôi cộng đồng và tình cảm cao cả, giàu nhạc điệu dân tộc.

Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi mở ra trang sử mới cho dân tộc. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, miền Bắc giải phóng, các cơ quan Đảng chuyển từ Việt Bắc về thủ đô, đánh dấu bước ngoặt mới của cách mạng đất nước.

Mở đầu bài thơ, giọng thơ êm đềm diễn tả nỗi nhớ và tình cảm của người ở lại dành cho người ra đi:

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Tác giả sử dụng xưng hô “mình-ta” không chỉ giữa đôi lứa mà là giữa người cách mạng và dân Việt Bắc, thể hiện tình cảm sâu sắc. “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” phản ánh gắn bó từ kháng chiến chống Nhật qua kháng chiến chống Pháp, tạo nên tình cảm bền chặt giữa chiến sĩ và nhân dân. Thời gian ấy đủ để sinh ra hoài niệm, như Chế Lan Viên nói: “Đất hóa tâm hồn”. Nỗi nhớ rộng khắp, cần tình yêu chân thành mới có cảm xúc mãnh liệt như vậy.

“Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Từ “ai” gợi nhiều cảm xúc, có thể là người ra đi hay người ở lại. “Tha thiết” khắc họa tình cảm giữa họ. “Bâng khuâng” và “bồn chồn” chứa đựng niềm vui trở về quê hương, nhưng cũng nỗi buồn chia tay nơi mang nghĩa tình. “Áo chàm đưa buổi phân ly” biểu tượng cho sự quyến luyến, phản ánh tâm hồn người Việt Bắc, tiễn người chiến sĩ cách mạng. Câu “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” tạo khoảng lặng ngậm ngùi trong lúc chia tay, để lại kỷ niệm khó quên.

“Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trái bùi để rụng măng mai để già.”

Nhà thơ khéo léo dùng dấu phẩy sau “Mình đi”, “Mình về” để ngưng đọng khoảnh khắc kỷ niệm. Những kỷ niệm đó gắn với “những ngày” và “chiến khu”, thể hiện qua hình ảnh “mưa nguồn suối lũ”, “những mây cùng mù”, “miếng cơm chấm muối”, phản ánh khó khăn của người cách mạng ở Việt Bắc. Khó khăn càng làm thắm thiết tình quân dân. Biện pháp nhân hóa “rừng núi nhớ ai” diễn tả nỗi nhớ sâu sắc. Cụm từ “trái bùi để rụng”, “măng mai để già” thể hiện nỗi buồn khi người cách mạng rời núi rừng Tây Bắc, tạo sự chênh vênh trước nhịp sống thay đổi.

“Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”

Nỗi nhớ càng rõ hơn qua từ “những nhà”, với nghệ thuật đối lập trong câu “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”, cho thấy khó khăn lại làm tình quân dân thêm gắn bó. Những kỷ niệm thời kháng chiến được nhắc đến làm cho người đi thêm trân quý. Sự lặp lại từ “mình” trong câu thơ gợi nhớ đến câu ca dao “Ta với mình tuy hai mà một”, khẳng định sự gắn kết. Những địa danh như “Tân Trào, Hồng Thái” nhắc về kỷ niệm sâu sắc giữa chiến sĩ cách mạng và dân Tây Bắc.

“Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy”

Lối đối đáp “mình-ta” vẫn được duy trì, tạo nên sự đồng vọng. Câu “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh” thể hiện tình cảm sâu sắc của người cách mạng với Việt Bắc, giống như lời thề trong tình yêu. So sánh trong câu “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…” cho thấy tình nghĩa bền chặt, không bao giờ vơi cạn như tình mẹ dành cho con. Nỗi nhớ ở đây được ví như nỗi nhớ người yêu, làm cho tình quân dân thêm gần gũi. Hình ảnh “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” thể hiện nỗi nhớ lan tỏa trong không gian và thời gian. Điệp ngữ “nhớ từng” cho thấy nhà thơ đang hồi tưởng từng kỷ niệm, và các địa danh không chỉ là chỗ chốn mà còn chứa đựng nhiều ký ức quý giá.

“Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ sao lớp học i tờ

Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”

Cụm từ “Ta đi ta nhớ…” thể hiện nỗi lòng người ra đi với những người ở lại, gợi nhớ về quê hương. “Mình đây ta đó…” cùng với “đắng cay ngọt bùi” nhấn mạnh tình nghĩa sâu sắc. Hai tiếng “thương nhau” mang ý nghĩa chia sẻ, đoàn kết mạnh mẽ giữa quân và dân, góp phần vào chiến thắng Điện Biên Phủ. Hình ảnh người mẹ “Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô” biểu trưng cho sự vất vả trong kháng chiến. Điệp ngữ “Nhớ sao” thể hiện nỗi nhớ đầy cảm xúc về những hoạt động chung, tạo không khí vui tươi, nhấn mạnh tinh thần lạc quan dù gian khó. Đoạn thơ ca ngợi cuộc sống đẹp, tình nghĩa ấm áp trong lòng người cách mạng Việt Bắc. Câu cuối gợi cảm xúc chân thật qua âm thanh tự nhiên.

“Ta về, mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”

Bức tranh tứ bình thật đẹp, với câu hỏi “Ta về mình có nhớ ta” thể hiện nỗi nhớ và yêu thương. Cụm từ “những hoa cùng người” như thành ngữ, hoa là biểu tượng cho thiên nhiên tươi đẹp. Mùa đông Việt Bắc với “hoa chuối đỏ tươi” tạo bức tranh sinh động, ấm áp giữa cái lạnh miền núi.

Con người lao động đẹp đẽ, hình ảnh được xây dựng bằng ánh sáng nghệ thuật. Mùa xuân hiện ra với “mơ nở trắng rừng”, cuộc sống lung linh trong công việc “chuốt từng sợi giang”, thể hiện vẻ đẹp kiên trì của con người kháng chiến. Mùa hạ tràn sức sống với tiếng ve và sắc vàng của rừng phách, hình ảnh “cô em gái hái măng” thật thơ mộng. Khép lại là mùa thu hòa bình, tượng trưng bằng vầng trăng đẹp. Câu thơ “Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung” kết thúc bức tranh và cuộc kháng chiến.

Nỗi nhớ của người ra đi không quên những ngày đầu kháng chiến. “Giặc đến giặc lùng” phản ánh sự nguy hiểm. “Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây” thể hiện sự gắn bó giữa thiên nhiên và con người. Núi trở thành đồng minh che chở trong chiến đấu, hình ảnh “Núi giăng thành lũy sắt dày” khẳng định sức mạnh dân tộc. Điệp từ “nhớ” và địa danh chiến công tạo cảm giác trải dài khắp chiến khu Việt Bắc. Sử dụng hình ảnh sinh động và biện pháp nghệ thuật, nhà thơ khẳng định sức mạnh vĩ đại của dân tộc và lòng tri ân đối với núi rừng Việt Bắc.

“Những đường Việt Bắc của ta

Ðêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.

Tìm hiểu thêm:  Phân tích bài thơ Quê hương của Đỗ Trung Quân: Nét đẹp tâm hồn và tình yêu quê hương

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về

Vui từ Ðồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”

Câu thơ “Những đường Việt Bắc của ta” thể hiện sự kết nối giữa Việt Bắc và nhân dân, khẳng định đây là quê hương cách mạng trong kháng chiến chống Pháp. So sánh “như là đất rung” và hình ảnh “quân đi điệp điệp trùng trùng” mô tả sức mạnh lớn lao của đoàn quân ra trận.

Câu thơ “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ và nhân hóa, gợi nhớ hình ảnh người lính và vẻ đẹp thơ mộng. Hình ảnh đoàn dân công “đỏ đuốc từng đoàn”, “bước chân nát đá” thể hiện sức mạnh kiên cường của người Việt Nam trong chiến tranh. Trong đêm tối, quân dân luôn hướng tới tương lai, cuối cùng tin vui trở về, mang theo kỷ niệm và thắng lợi khi kháng chiến kết thúc.

“Ai về ai có nhớ không?

Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.

Nắng trưa rực rỡ sao vàng

Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công

Ðiều quân chiến dịch thu đông

Nông thôn phát động, giao thông mở đường

Giữ đê, phòng hạn, thu lương

Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…

Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.

Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa

Mình về mình lại nhớ ta

Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”

Những câu thơ cuối cùng tả cảnh Việt Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ, nơi rộn ràng màu nắng vàng và cờ đỏ. Trung ương Đảng và Chính phủ trở lại thủ đô trong bầu không khí nhộn nhịp, miền Bắc đổi mới với chính sách của Đảng: “Giữ đê, phòng hạn, thu lương/Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…”. Đoạn thơ còn tri ân Bác Hồ và miền núi Việt Bắc, dù về thủ đô nhưng người chiến sĩ luôn nhớ đến nơi này.

Đoạn trích như một bản nhạc đầy cảm xúc về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và những người anh hùng. Qua đó, nhà thơ thể hiện tình cảm với Việt Bắc, ca ngợi tình đồng chí và nghĩa đồng bào. Tác giả cũng nhắc nhở người đọc không quên lịch sử hào hùng, đầy máu và nước mắt, ngập tràn lòng yêu nước.

Phân tích bài thơ Việt Bắc mẫu 3

Tố Hữu là một biểu tượng của thơ ca kháng chiến, góp phần quan trọng vào văn học cách mạng và Việt Nam. Tác phẩm “Việt Bắc” ra đời tháng 10/1954, đánh dấu sự trở về của Đảng và Chính phủ từ căn cứ miền núi.

Trong “Việt Bắc”, việc sử dụng đại từ “mình” và “ta” cùng cấu trúc đối đáp giống ca dao giúp thể hiện nỗi lòng chia tay giữa nhân dân và những người lãnh đạo như một cuộc chia ly đầy lưu luyến. Bài thơ được chia thành hai lời đối thoại giữa kẻ ở lại và người ra đi.

Tám câu đầu phản ánh lời chia tay của người ra đi và người ở lại, tạo cảm giác sâu sắc về khoảnh khắc này:

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi nhìn cây nhớ nguồn.

Với cấu trúc “mình về mình có nhớ…” như một câu hỏi, người ở lại gợi nhắc kỉ niệm sâu sắc trong mười lăm năm gắn bó. Người ra đi không thể giấu nỗi lòng khi nhắc đến khoảnh khắc tiễn biệt. Khung cảnh bịn rịn được thể hiện qua các từ thể hiện cảm xúc như “bâng khuâng”, “bồn chồn”.

Tám câu thơ đầu là lời đáp của người ra đi và người ở lại, phần còn lại phản ánh tâm tư người ở lại. Câu hỏi “có nhớ” luôn thường trực, nhấn mạnh những kỉ niệm son sắt dù gian khó. Điệp từ “có nhớ” lặp lại thêm lần nữa, khắc sâu vào trái tim cả hai bên.

Và rồi, trước lời của người ở lại, người ra đi đã khẳng định một cách chắc chắn về nỗi nhớ con người, cảnh vật nơi đây, lời đáp của người ra đi như một lời thề thủy chung son sắt – lời thề về một nỗi nhớ khôn nguôi, da diết:

Ta với mình mình với ta

Tình ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu.

Người ra đi đã khắc họa rõ nét kỷ niệm về thiên nhiên và con người Việt Bắc trong lời đáp của mình. Thiên nhiên nơi đây hiện lên đầy đủ với những đặc trưng riêng biệt: ánh trăng yên bình, nắng chiều ấm áp trên nương, và những bản làng huyền ảo giữa màn sương. Những hình ảnh như rừng nứa, bờ tre, suối Lê gợi nhớ một cách sâu sắc về mảnh đất này.

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy

Bức tranh thiên nhiên Việt Bắc trong nỗi nhớ của người ra đi là tứ bình, thể hiện sự chuyển mình của thiên nhiên qua các mùa. Mùa đông, với sắc đỏ hoa chuối trên nền xanh rừng, tạo nên vẻ đẹp ấm áp. Xuân về, hoa mơ nở trắng như báo hiệu mùa mới. Đến hè, tiếng ve kêu làm rừng phách bừng tỉnh. Mùa thu với ánh trăng mang lại nhiều nỗi niềm.

Người ra đi không chỉ nhớ vẻ đẹp thiên nhiên mà còn những con người cần cù kháng chiến nơi đây:

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô.

Vất vả, lam lũ là thế nhưng những con người nơi đây vẫn sống với nhau thật thủy chung, tình nghĩa, họ luôn đồng cam cộng khổ với nhau, chia ngọt sẻ bùi, lạc quan, yêu đời để cùng nhau vượt qua những năm tháng khó khăn, gian nan của cuộc kháng chiến.

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

(…)

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang nùi đèo

Hình ảnh con người Việt Bắc mỗi mùa công việc khác nhau, luôn lao động làm chủ quê hương. Ấn tượng với hình ảnh tỉ mỉ “người đan nón”, “cô em gái hái măng” và “tiếng hát ân tình” trong nỗi nhớ của người ra đi. Thiên nhiên và con người Việt Bắc thật đẹp.

Nhớ về Việt Bắc, người ra đi cũng nhớ đến hình ảnh hào hùng trong kháng chiến. Giọng thơ mạnh mẽ diễn tả sự dũng mãnh, với không gian rộng lớn đầy khí thế, là hình ảnh quân dân ta ra trận “quân đi điệp điệp”, “dân quân đỏ đuốc”. Tất cả tạo nên bức tranh Việt Bắc anh dũng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, cùng những chiến thắng lẫy lừng.

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hào Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp. An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

Trong mười sáu câu thơ cuối, tác giả nhấn mạnh vai trò quan trọng của Việt Bắc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Việt Bắc là quê hương cách mạng, trung tâm chỉ huy và là nguồn động viên tinh thần cho quân và dân ta, mang lại niềm tin về chiến thắng và hòa bình cho Tổ quốc.

Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.

Cuối cùng, hai câu kết thúc bài thơ vang lên như một lời thề son sắt với nhân dân và quê hương cách mạng.

Mình về mình lại nhớ ta

Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.

Tóm lại, bài thơ sử dụng cặp đại từ “mình” và “ta” cùng cấu trúc đối đáp thể hiện sự chia tay đầy xúc động giữa cán bộ và nhân dân Việt Bắc. Đây là một khúc ca cách mạng về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và tình nghĩa giữa những người trong cuộc chiến đó. Qua đoạn trích cũng giúp ta hiểu rõ hơn phong cách thơ của Tố Hữu.

Phân tích bài thơ Việt Bắc mẫu 4

Tố Hữu là nhà thơ lớn của văn học Việt Nam, đặc biệt trong thể loại cách mạng. Các tác phẩm của ông phản ánh rõ nét những biến cố lịch sử trong cuộc kháng chiến. Qua bài thơ “Việt Bắc,” ta thấy được tâm hồn và phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.

Bài thơ được sáng tác tháng 10 năm 1954, sau chiến thắng chống Pháp, khi Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc trở về Hà Nội. Tố Hữu, một người từng sống gắn bó với nơi này, đã viết nên bài thơ đầy cảm xúc chia tay.

Với thể lục bát nhẹ nhàng, bài thơ mang âm hưởng trữ tình. Việc chọn thể thơ này để diễn tả nỗi nhớ về Việt Bắc là rất hợp lý.

Tác giả mở đầu bài thơ bằng loạt câu hỏi tu từ:

Mình về mình có nhớ ta?

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không?

Nhìn cây nhớ suối nhìn sông nhớ nguồn.

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai?

Mình về rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái mái đình cây đa?

Kỉ niệm giờ chỉ còn trong trí nhớ, chậm rãi trôi qua… Những câu hỏi liên tiếp xuất hiện tạo nên một tâm trạng thấm đẫm của nhân vật. Qua đó, cảnh núi rừng Việt Bắc hiện lên sống động: núi non hùng vĩ, sông suối, mưa ào ạt… Giữa khung cảnh ấy nổi bật là cuộc sống gian lao nhưng đoàn kết, thắm tình nghĩa giữa cán bộ và nhân dân. Dù chiến đấu vất vả, nhờ sự hỗ trợ của những con người nơi đây, mọi kỉ niệm đều trở nên đẹp đẽ trong trái tim họ.

Chân đi mà lòng ở lại… Lòng gắn bó hơn mười năm giờ đây phải chia xa thật tiếc nuối. Người chiến sĩ mang nỗi ngậm ngùi thương nhớ. Câu hỏi của đồng bào không chỉ thể hiện nỗi lưu luyến mà còn muốn khắc sâu những ngày tháng kỉ niệm.

Tìm hiểu thêm:  Phân tích bài thơ Tây Tiến: Nét đẹp hùng tráng và bi thương trong tâm hồn người lính

Cách xưng hô “mình – ta” thể hiện sự gần gũi, gắn bó mật thiết giữa quân dân, làm cho lời thơ như tâm tình nhẹ nhàng. Hình ảnh “Áo chàm đưa buổi phân li…” ám chỉ đồng bào Việt Bắc trong giây phút chia ly, bàn tay đan chặt, không nói lời nào ngoài cái nắm tay ấm áp. Cái bắt tay này cũng từng xuất hiện trong thơ của Chính Hữu.

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay…

Họ không có gì ngoài tình đồng chí đậm sâu trong cái lạnh giữa đêm khuya. Cái bắt tay đơn giản giúp người chiến sĩ vượt qua khó khăn kháng chiến ban đầu. Nắm tay này mang ý nghĩa chia li, chứng minh tình cảm quân dân thắm thiết.

Trước nỗi nhớ lớn lao, người chiến sĩ dần bộc lộ tâm tư qua từng câu chữ.

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy

Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi….

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa…

Kỷ niệm ùa về, rõ ràng như mới hôm qua. Người chiến sĩ thể hiện tấm lòng trung thành, tình cảm sâu nặng tựa dòng nước mát cho bản làng. Anh nhớ ánh trăng tròn sau núi, nắng vàng trên cánh đồng lúa chín, sáng sớm trong sương khói, và từng dòng suối trong rừng. Thiên nhiên Việt Bắc hùng vĩ qua từng câu thơ gợi nhớ.

Hình ảnh củ sắn lùi, bữa cơm giản dị đầy nghĩa tình làm anh xao xuyến. Mẹ địu con lên rẫy biểu tượng cho phong trào nuôi quân. Anh nhớ lớp học, tiếng hát vang vọng từ dân quân… Những kỷ niệm này thật đẹp và gắn bó với cuộc đời anh, không cần lời chia tay nhưng đủ thể hiện tình cảm sâu sắc giữa cán bộ và nhân dân.

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Nhà thơ khắc họa thiên nhiên Việt Bắc qua bốn mùa, nhưng chọn mô tả mùa đông trước. Mùa đông là thời điểm gặp gỡ và chia ly, khắc sâu trong lòng người. Các cánh rừng xanh mướt và hoa chuối đỏ tươi tạo nên bức tranh tuyệt đẹp. Con người sẵn sàng chinh phục thiên nhiên: “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Khi xuân về, vẻ đẹp lại được tô điểm bởi hoa mơ trắng tinh khôi và hình ảnh lao động chăm chỉ. Mùa thu mang đến màu vàng hổ phách cùng âm thanh ve kêu. Cuối cùng, là ánh trăng hòa bình và những bài hát thủy chung.

Chỉ qua vài câu thơ, cuộc sống như ngưng tụ. Con người và thiên nhiên Việt Bắc là trung tâm của bức tranh bốn mùa, nàng tiên đại diện cho sắc màu nhẹ nhàng trên từng dòng chữ.

Sau đó, người chiến sĩ nhắc đến các hoạt động cách mạng sôi nổi của mình:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng

Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà…

Ký ức về bộ đội chiến đấu chống giặc trở lại. Khi quân giặc tấn công, cả quân và rừng thiên nhiên cùng hợp sức. Rừng bảo vệ, che chở cho ta, giúp bộ đội yên tâm chiến đấu. Ngược lại, rừng là trở ngại nguy hiểm với địch, tạo ra nhiều cạm bẫy. Thiên nhiên Việt Bắc đã góp phần lớn vào chiến thắng vĩ đại của dân tộc.

Nhưng trên tất cả tình dân quân thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ:

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ man

Dân công đuốc đỏ từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp An Khê

Vui lên Việt Bắc đèo De núi Hồng.

Khí thế đoàn quân mạnh mẽ thể hiện qua hình ảnh “đêm đêm rầm rập như đất nung” và những từ ngữ gợi hình “điệp điệp trùng trùng”. Ánh sao đầu súng, mũ nan là biểu tượng của bộ đội và nhân dân Việt Bắc. Ngọn đuốc quân dân không chỉ chiếu sáng bầu trời mà còn thắp sáng niềm tin vào tương lai và chiến thắng sắp tới. Sức mạnh đoàn quân đủ làm nát đá, không gì cản nổi. Tố Hữu tái hiện bối cảnh lịch sử qua những dòng thơ ngắn, đưa ta trở lại thời hào hùng của tổ tiên. Giữa bóng tối, ánh đèn pha thắp lên niềm hy vọng cho tương lai tươi đẹp.

Sau những tháng ngày gian khổ, quân dân ta đã giành thắng lợi vẻ vang. Niềm hạnh phúc vỡ òa không từ nào diễn tả; từ Hòa Bình Tây Bắc đến Điện Biên, mọi người chia sẻ niềm vui, chứng tỏ sự đoàn kết không thể phá vỡ trong khó khăn.

Giữa nỗi nhớ khi chia xa, nhà thơ ca ngợi tổ quốc, Đảng và Chính phủ Việt Nam:

Ai về ai có nhớ không?

Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang

Nắng trưa rực rỡ sao vàng

Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công

Điều quân chiến dịch thu đông

Nông thôn phát động giao thông mở đường

Giữ đê, phòng hạn, thu lương

Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu

Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền

Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa

Mình về mình lại nhớ ta

Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.

Ngày hôm qua luôn sống trong lòng người chiến sĩ cách mạng, trở thành kỉ niệm không thể tách rời. Ngọn cờ sao vàng là biểu tượng cho các thắng lợi của dân tộc. Hình ảnh Bác Hồ tiếp thêm dũng khí và nghị lực cho quân dân, khích lệ ý chí vượt qua thử thách phía trước.

Mình về thành thị xa xôi

Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?

Phố đông còn nhớ bản làng

Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?

Mình đi ta hỏi thăm chừng

Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?

Lời thơ thể hiện nỗi băn khoăn của người dân Việt Bắc khi chia tay chiến sĩ cách mạng. Các hình ảnh như nhà cao, phố đông, núi đồi tượng trưng cho đời sống thành thị và núi rừng. Sự đối lập giữa cuộc sống đầy đủ và nghèo khó nhưng giàu kỷ niệm làm người dân lo lắng liệu cán bộ có thay đổi tình cảm, quên đi quá khứ và những người đã cùng nhau trải qua khó khăn hay không. Người cán bộ đáp lại điều này.

Đường về đây đó gần thôi

Hôm nay rời bản về nơi thị thành

Nhà cao chẳng khuất núi xanh

Phố đông càng giục chân nhanh bước đường

Ngày mai về lại thôn hương

Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về

Ngày mai rộn rã sơn khê

Ngược xuôi tàu chạy bốn bề núi giăng…

Người cán bộ cách mạng luôn giữ lòng trung thành với Việt Bắc, dù hoàn cảnh có thay đổi. Họ không quên cảnh đẹp nơi đây và sẽ trở về thăm lại bản làng, tình cảm vẫn nguyên vẹn như xưa.

Trong giây phút chia ly, thông điệp cuối cùng từ người dân Việt Bắc là:

Mình về với Bác đường xuôi

Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ người

Nhớ ông Cụ mắt sáng ngời

Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường

Nhớ Người những sáng tinh sương

Ung dung yên ngựa trên đường suối reo

Nhớ chân Người bước lên đèo

Người đi rừng núi trông theo bóng Người.

Hình ảnh Bác lại xuất hiện trong bài thơ, không còn là biểu tượng cho sức mạnh hay niềm tin cách mạng mà là một con người bình dị, với ánh mắt sáng và trang phục đơn giản. Hình ảnh ấy như một vị tiên trong truyện cổ, đẹp theo cách rất riêng. Giờ đây, Người đã đi xa, nhưng vẫn theo dõi từng bước chân của chúng ta.

Kết thúc bài thơ là hai câu với âm điệu vui tươi:

Cầm tay nhau hát vui chung

Hôm sau mình nhé hát cùng thủ đô.

Hai câu cuối bài thơ tạo cảm giác vui tươi, dù nói về chia tay nhưng vẫn mang đến sự lạc quan cho người đọc. Khúc ca kết thúc như một lời ngợi ca sức sống của Tổ quốc, vừa là chia tay đầy tin tưởng.

Bài thơ Việt Bắc để lại dư âm sâu sắc nhờ vào nghệ thuật đặc sắc với tính dân tộc nổi bật. Thể lục bát quen thuộc được sử dụng tinh tế, cùng với chất văn xuôi và hình ảnh so sánh đã tạo nên giọng điệu đặc trưng.

Bài thơ không chỉ tái hiện không khí kháng chiến mà còn khắc họa vẻ đẹp tâm hồn người quân dân, tinh thần đoàn kết và trách nhiệm với Tổ quốc. Tố Hữu thể hiện tài năng qua tình yêu thiên nhiên và con người nơi đây, đánh dấu thời gian gắn bó với đời sống dân dã.

Việt Bắc cùng các tác phẩm khác như Đồng chí hay Bài thơ về tiểu đội xe không kính, đã góp phần quan trọng cho thơ ca cách mạng, truyền cảm hứng cho những người lính và phản ánh vẻ vang của dân tộc, giúp thế hệ sau tự hào.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *